Trương Ngáo, cảnh 10

Cuộc hội kiến giữa Trương Ngáo và Đức Phật

 

Thích Ca, xướng:

Hảo a!

Thoát kiếp trần duyên thế vị tri,

Hoàng kim điện thượng ngọc long trào.

Hoa khai Bát Nhă thiền tâm tịnh,

Trúc dẫn Như Lai nhăn giới cao[1].

 

Lại nói :

     Biệt chiếm ngoại Thiên Tào, Ngă Thích Ca Bồ Tát. Như ta nay: Thong thả một bầu cực lạc, Thảnh thơi tám cơi càn khôn. Thấy họ Trương mắc chứng điên cuồng, Vốn nhà gă có ḷng thành kính[2]. Thinh không ứng hiện, Đem lại báu lành. Trước cứu chàng đặng định tánh t́nh, Sau cho gă hưởng nhờ phú quí. Hiệp duyên Hà thị, Oan báo Liễu nương. (14a) Âu là: Giá vơ khứ mang mang, Thừa phong hành phất phất.

 

Loạn:

Tùng xuất vân xa giáng hạ trần,

Giải tha Trương thị đắc thành thân.

Huệ nhựt tinh khai phổ tế thiện,

Duyên đăng giác lộ từ vân phúc,

Đào đổng thành thân thoát mê tân[3].

 

Lại nói:

     Chừ nó thời dại, ta để nguyên h́nh mần rứa, thời nó không biết ta đâu mà nó kiếm. Âu là: Kíp hóa dạng kim thân, Đặng [cho] chàng nh́n cho dễ.

 

Ngáo:

     Ớ! H́nh ai ngồi sồ sộ, Dựa bên đá chần vần[4]. Âu là: Ta kíp [sẽ] lại gần, Coi cho hăn ư [5]a! Hạnh hỉ hạnh hỉ, Hoan nhiên hoan nhiên! Sao anh chẳng trả tiền, Cố lên đây mà trốn vậy anh? Nay gặp anh đây, chớ anh tính làm sao? Phải trả đủ lời đủ vốn, không thời thế áo thế khăn[6]. Anh gia hại tôi làm chi, cho nên vợ tôi nó đánh nó chưởi tôi[7] làm vậy anh? Tôi đi đà xa nửa con trăng mới gặp một người chủ nợ[8]. (14b)

 

Thích Ca:

     Vốn đây không vay bợ, Mà tính vốn tính lời[9] mà!

 

Ngáo:

     Ơ!Anh Phật, anh nói tiền tôi không tờ không khế nên anh muốn toan nói ngược[10], mà nói đặng thời nói thê!

 

Thích Ca:

     Thấy nhà ngươi t́m kiếm khắp nơi, Nên ta xuống tỏ phân trong đục[11] cho chàng nghe. Của nhà ngươi thời nửa chục, Ta trả lại một đồng[12].

 

Ngáo:

     Ơ! Anh Phật này, anh nói ngược[13]. Số là, chưa phải anh Phật a. Tiền năm quan, anh phải trả tiền lời làm sao chớ tôi nghe thiên hạ nói rằng là: niên nguyệt tuy đa, tức bất quá bản[14]. Sao anh nói vậy. Lẽ thời quá chục, Sao có một đồng? Tôi tới đây khá dễ về không. Anh phải tính làm sao cho có chớ!

 

Thích Ca:

     Vốn nhà ngươi chưa tỏ, Nên ta phải bày lời. Tiền này là tiền Phật tiền Trời, Chẳng phải tiền ma tiền quỉ. Mà ta nói thiệt: Ngươi cho thành ư thời biến thiên. Ngươi chấp bàn tay lại (15a) niệm Phật, ngươi vái Trời. Muốn mấy quan cũng có mấy quan, Muốn ước mấy chục đặng thêm mấy chục. Đừng kêu theo thế tục, Khá cải tiếng quốc âm. Ta đặt tên chàng là Hứa Chơn Tâm, Sau sánh với nàng Hà Như Ư mà!

 

Ngáo:

     Ờ! Người đặt tên tôi là Hứa Chơn Tâm, Sau lại sánh với nàng Hà Như Ư[15]. Vậy chớ c̣n như vợ tôi ở nhà thời làm sao[16]?

 

Thích Ca:

     Muốn tỏ bề gia sự, Ta cho một nhành cây. Muốn hết chứng điên ngây, Ta cho ba huờn thuốc. Nghe ta dặn: Về tới đó lấy nhành cây, Để thời biết đặng chánh tà. Hiệp duyên kia thời uống thửa thuốc này. Mới an hung chứng quỉ. Khá noi theo ư chỉ, Đừng cải thửa phép người. Ta trở lại Tây thiên, Ngươi lui về Bắc lănh.

 

Ngáo:

     Uư a! Gió ở đâu rất mạnh, Phật bay mất không hay. Đ̣i tiền rất đặng may, Cho món kia thêm chục. Âu là: Chỉ quê xưa trở lại, Đè dặm (15b) cũ băng chừng. Bôn lộ hướng phi phi, thê sơn hành phất phất.

 

Loạn:

Biệt liễu lănh sơn vọng Khai Châu,

Khuất khúc na từ hảo đằng du.

Thiên sơn mạc nại từ lao khổ,

Vạn lư na từ mịch công phu[17].

 

Lại nói :

     Khi đi thời thăm thẳm, Trở lại rất mau mau[18]. Vừa giập một miếng trầu, Đà tới nơi quán liễu[19]. Phật Thích Ca có biểu, Như Ư thiệt vợ ta. Chừ về đây cũng muốn nói ra, E chẳng xứng sợ nàng lại đánh[20]. Dầu nàng đánh, thời ta cũng nói ra chớ!  Dầu nàng khoe sức mạnh, Thời ta chạy cho xa. Âu là: Kíp vào đó lân la, Đặng kiếm điều phân nói a!

 

CẢNH 11

 



[1] Thoát kiếp trần duyên thế vị tri 脱 刧 塵 緣 世 爲 知: Ta ở ngoài ṿng trần thế nhưng người đời c̣n chưa biết. Hoàng kim điện thượng ngọc long triều 黄 金 殿 上 玉 竜 朝: Chỗ ta ở, điện có rồng chầu, các tượng thếp vàng rực rỡ. Hoa khai bát nhă thiền tâm tịnh 花 開 般 若 禪 心 凈. Ḷng ta thiền tịnh yên lặng như hoa Bát Nhă. Trúc dẫn Như Lai nhăn giới cao 竹 引 如 來 眼 界 髙: Rừng trúc dẫn đến như lai và giác ngộ. Mấy câu xướng nầy Phật nói về ḿnh, nơi ḿnh ngự và ngụ ư hướng dẫn Ngáo đến gặp ông nơi hồ sen, cạnh rừng trúc.

[2] Thấy họ Trương mắc chứng điên cuồng 体 戸 張  症 顛 狂, Vốn nhà gă có ḷng thành kính 本 茹 妸 固 弄 誠 敬: Hiểu theo kiểu b́nh thường của vở tuồng th́ ông Phật hiền như Bụt, anh chàng Ngáo coi ông như kẻ ngang hàng và chưa có lời nào thành kính thế mà ông vẫn thương, ông đánh giá cao sự thành kính của Ngáo! Ta hiểu như một sự tượng trưng mấy chữ nầy, Ngáo điên cuồng tức là người tu mà mê muội không hiểu rơ kinh điển, ḷng thành kính tức là thành tâm quyết chí tu niệm. Vậy th́ ông Phật chỉ là tác nhân, là kinh điển, là Phật pháp để giúp người tu mê muội được huệ trí. Bản Nôm chữ cuồng viết sai bộ khuyển .

[3] Tùng xuất vân xa giáng hạ trần 從 出 雲 車 降 下 : Ta theo xe mây xuống cơi thế gian, Giải tha Trương thị đắc thành thân 解 他 張 氏 得 成 身: Độ cho chàng họ Trương hết nạn, nên gia thất. Huệ nhựt tinh khai phổ tế thiện 惠 日 星 開 普 濟 善: Phép Phật nhiệm mầu như mặt trời như sao sáng, cứu khắp chúng sanh và dạy họ làm lành, Duyên đăng giác lộ từ vân phúc 緣 登 覺 路 慈 雲 覆: Thắp đèn duyên, mở đường giác, đem đến mây lành cho đời, Đào đổng thành thân thoát mê tân : Giúp người cơi thế thoát khỏi bến mê, hiểu lẽ đạo.

[4] H́nh ai ngồi sồ sộ 刑 埃 𡎥 数 数, Dựa bên đá chần vần 預 边 𥒥 振 鐄: Ngáo thấy Phật trước mặt mà không biết là ǵ. Chúng sanh đa phần ở trong t́nh trạng nầy, Phật, cũng như lẽ đạo ở ngay trước mắt mà không thấy, không hiểu, suốt đời đi t́m bởi v́ cái tâm c̣n mê, c̣n chấp sự t́m, c̣n câu nệ trên chữ, trên lời. Sồ sộ 数数: lớn kềnh, lớn đại. HTC, sộ sộ 數數, bộ to lớn. Chần vần 振 鐄: quá lớn. HTC , lớn đại, Bịt khăn chần vần: bịt khăn đơm ra lớn quá. Mặt chần vần: mặt lớn quá. 

[5] Ta kíp [sẽ] lại gần 些 急 仕 吏 𧵆, coi cho hăn ư 𩲡 朱 罕 意: Ḿnh đến đó coi cho rơ ràng. Câu dư chữ sẽ . Đây không phải như chữ sẽ của Kiều: Gót sen sẽ động giấc ḥe v́ Ngáo không rụt rè chút nào hết, Ngáo mạnh dạn, đàng hoàng đến. Nhận thấy chữ sẽ nầy làm lấn cấn câu văn, P. H. S. đă bỏ, không nói đến. Chữ hăn khắc dư nét phần can thành ngọ .

[6] Phải trả đủ lời đủ vốn 沛 呂  𢈱  本, Không thời thế áo thế khăn 空 時 世 袄 世 巾. Quyết tâm dữ cái anh chàng Ngáo nầy! Ngáo đ̣i xiết áo xiết khăn v́ khi xưa người ta ra đường đội khăn thay v́ đội nón như ngày nay. Xưa thế áo thế khăn là quá lắm, nay th́ thế xe, thế đồng hồ, thế điện thoại di động!

[7] Anh gia hại tôi làm chi 英 加 害 碎  之, Cho nên vợ tôi nó đánh nó chửi tôi  朱 年  碎 奴 打 奴 𠯽 : Anh làm hại tôi để làm ǵ cho tôi khổ thân bầm dập! Chữ làm chi như lời than trách móc nhẹ nhàng, như là khẩn khoản xin giùm giúp. Chi tiết bị vợ đánh đưa ra như lời van xin ḷng thương hại. Ta cũng có thể hiểu như lời than khổ cực của người theo đạo nhưng chưa nắm vững được lẽ đạo. HTC, gia hại 加害, gia báo 加 報: làm báo hại. (tiếng than). Bản Nôm dư chữ ai : [Ai] Anh gia hại tôi. Chữ nên , như nhiều trường hợp khác, đă khắc thành sao .

[8] Đi đà xa nửa con trăng 𠫾 它 賖 姅 昆 𦝄,Mới gặp một người chủ nợ 買 及  𠊚 𦬑: Đi đă được nửa tháng mới gặp người mắc nợ ḿnh. Con số nửa con trăng chỉ là tượng trưng thôi, vă lại trong tuồng hát bội điều nầy không được coi trọng. So với lời Ba Bành nói Ngáo đi đă được ba tháng, ai đúng ai sai. Chắc Ngáo sai v́ anh là Ngáo! Đơn vị thời gian trong tuồng Trương Ngáo thường theo cách nói của người b́nh dân, nửa con trăng, vài chập. Theo HTC, chủ nợ 主女, người cho vay, cũng hiểu là người mắc nợ. Nay chủ nợ là người có người khác mắc nợ ḿnh, con nợ là người mắc nợ người khác.

[9] Vốn đây không vay bợ 本 低 空 為 助, Mà tính vốn tính lời 麻 併 本 併 𢈱: Ta không có vay, cho nên đừng nói chuyện tính lời tính vốn. Chuyện đến với Phật là tự người bổn đạo đến bằng ḷng thành tự nhiên của ḿnh, đừng nên đ̣i hỏi nầy nọ. Vay bợ 為 播, HTC, thuê mượn tiền bạc, lúa thóc mà buộc phải trả lời. Cùng nghĩa với vay mượn, vay hỏi. Đó là tiếng đôi của vay. Bản Nôm viết bợ bằng trợ . P. H. S.  cũng đọc là vay bợ.

[10] Tiền tôi không tờ không khế 錢 碎 空 詞 空 契,Nên anh muốn toan nói ngược 年  悶 筭 呐 虐: Tiền tôi đưa không có giấy tờ chứng minh, chẳng có giấy nợ được kư, cho nên anh tính nói không có vay tôi. Nói ngược 呐虐: nói nghịch lại một điều đă chịu, đă giao ước. Chữ ngược viết sai thành đường 唐.

[11] Thấy nhà ngươi t́m kiếm khắp nơi  茹  尋 釼 泣 尼, Nên ta xuống tỏ phân trong đục 年 些 𠖈 訴 分 冲 濁: Ngươi muốn gặp th́ ta hiện ra. Có cầu th́ được, có ước th́ thấy. Có quyết tâm đi t́m th́ sẽ gặp Phật. Phật là chân lư, là giác ngộ, là thanh thản trong tâm, là liễu đạo, không phải là Phật h́nh tướng. Đây là ư căn bản của tuồng Trương Ngáo.  Bản Nôm khắc sai chữ ngươi  thành chữ đích !

[12] Của nhà ngươi thời nửa chục 𧵑 茹  時 姅 逐, Ta trả lại một đồng 些 呂 吏  銅. Năm quan đổi lấy một đồng, chắc là lời nói thử. (Một quan là sáu mươi đồng). Cũng có thể hiểu là một đồng tiền phép.

[13] Anh Phật nầy 英 佛 尼, anh nói ngược 英 呐 虐. Đây là lần thứ hai Ngáo nói chữ ngược đối với Phật. Ta hiểu chữ ngược như một từ nhấn mạnh đến sự thảo luận sôi nổi về vấn đề Phật pháp. Chữ ngược nầy khiến tôi nhớ đến chữ giết trong một thiền án: Gặp Phật th́ giết Phật đi!

[14] Niên nguyệt tuy đa 年 月 雖 多, Tức bất quá bản 息 不 過 本: Cho vay lâu bao nhiêu th́ tiền lời cũng không quá tiền vốn. Câu nói của Ngáo không ăn nhằm ǵ chỗ nầy. Lộn xộn.

[15] Người đặt tên tôi là Hứa Chơn Tâm 𠊚 達 筅 碎 廾 許 眞 心, Sau lại sánh với nàng Hà Như Ư 娄 吏 𤯭 貝 娘 何 如 意. Ngáo chấp nhận tên mới và một duyên t́nh mới, có nghĩa là nghiệp chướng cũ của ngu muội ngây si giờ đây đă rũ sạch, giai đoạn mới của thông tuệ của Thiên Đường bắt đầu. Để ư cũng từ phút nầy Ngáo không kêu Phật bằng anh nữa mà gọi bằng người 𠊚.

[16] C̣n như vợ tôi ở nhà th́ làm sao 群 如  碎 唹 茹 時  牢? Câu hỏi rất có t́nh, không muốn ĺnh x́nh v́ chuyện vợ một vợ hai.

[17] Biệt liễu lănh sơn vọng Khai Châu 别 了 領 山 望 開 州: Lănh sơn từ biệt hướng Khai Châu, Khuất khúc na từ hảo đằng du 屈 曲 那 自 好 滕 𨒣: Đâu sá ǵ đường núi ṿng vèo, ḿnh bay bổng trên không, chuyến du hành thích quá. Thiên sơn mạc nại từ lao khổ 千 山 莫 柰 自 劳 苦: Không nề lao khổ vượt qua cả ngàn ngọn núi. Vạn lư na từ mịch công phu 萬 里 那 自 覓 功 夫: Cũng chẳng ngại vượt qua cả ngàn dặm đường. Một ḷng tu dưỡng (mong về đất Phật). Chữ khúc bản Nôm sai thành hồi .

[18] Khi đi thời thăm thẳm 𠫾 , Trở lại rất mau mau 阻 吏 叱 毛 毛: Lúc đi th́ thấy đường xa, Khi về th́ thấy mau. Cái tâm lư của người đi đường xa xứ lạ, bận về luôn luôn cảm thấy gần bỡi v́ đă quen cảnh.

[19] Vừa giập một miếng trầu 皮 甲  𠲶 , Đà tới nơi quán liễu 它 細 尼 館 了: Chỉ khoảng thời gian đi đường đủ để ăn hết một miếng trầu th́ đă tới quán. Nói giập một miếng trầu như nói tàn một điếu thuốc, chín một nồi cơm… là cách nói về thời gian một cách dễ hiểu của ngày xưa. Quán liễu<>Miếng trầu, Chữ liễu chỉ có mặt để đối, không mang nghĩa cụ thể.

[20] Chừ về đây cũng muốn nói ra 𧗱 . E chẳng xứng sợ nàng lại đánh 𠲖 : Chưa biết Ngáo cũng muốn nói ra v́ muốn được nàng Như Ư hay muốn nói v́ bổn phận phải chuyển câu trả lời. C̣n cái sợ bị đánh th́ dễ hiểu, đó là do cái tâm lư sợ vợ đánh đă ăn sâu vô tiềm thức, mỗi sự ǵ thấy trái trái th́ sợ bị đ̣n. Tôi nghiệp Ngáo bị đ́ quá cở thợ mộc dưới thời đại Ba Bành, giờ thành ra như người bị thiết lập thảo chương, bị cấy sinh tử phù sợ!