Họa Ðông Chi thị xuân dạ chu hành hướng Liễu độ nguyên vận
Án Sát Quảng Bình
Mạc hận thu thâm cúc dĩ tàn
Xuân phong trùng hướng tảo mai khan
Thi thành ngẩu phóng Thương Lang (1) trạo
Ðiệu cấp thiên liên Lục ỷ (2) đàn
Chẩm lý giang ba tùy mộng khứ
Không trung hiểu lộ thấp y hàn
Nhất bôi Liễu độ quân tu túy
Tá ngã ca trù vị bất toan
Họa thơ Đêm xuân chèo thuyền đến chơi bến đò Liễu của ông Ðông Chi
Ðừng hờn giận gì khi mùa thu đã qua, hoa cúc đã tàn
Gió xuân lại thổi đến sẽ được nhìn cành mai nở sớm
Đôi khi chèo thuyền trên sông nước lại làm thơ
Ðiệu đàn gảy nhanh thì thương cho đàn Lục Ỷ
Sóng sông theo gối mộng chập chờn đẩy đưa theo làn sóng
Sương sớm ban mai ướt lạnh cả áo
Ðưa chén rượu mời anh bên bến đò Liễu, anh phải cạn say
Nhờ thêm giọng hát ca Trù của tôi để vị rượu bớt cay
Họa thơ Đêm xuân chèo thuyền đến chơi bến đò Liễu của ông Ðông Chi
Ðừng giận thu đi cúc đã tàn
Gió xuân lại đến ghẹo mai vàng
Ngâm nga lúc hứng Thương Lang khúc
Réo rắt càng thương Lục Ỷ đàn
Gối mộng bềnh bồng theo sóng vỗ
Áo đơn ướt át buốt sương tan
Chén mời bến Liễu say anh nhé
Nhờ giọng ca Trù bớt xốn xang
Nguyễn Hữu Vinh dịch, Taiwan, 1995
Chú Thích
Lời tác giả: Thơ làm trong thời kỳ làm quan Án Sát tỉnh Quảng Bình.
______________
1) Thương Lang 滄浪: [ÐTT10] tr. 168 Tên vùng sông nước, tên khúc hát trên sông. Sở Từ bài Ngư phu 漁夫có bài hát Thương Lang Ca 滄浪歌 Ý chỉ vùng sông nước.
2) Lục Ỷ 綠綺: [ÐT] tr. 192 Tên cây đàn, một điệu đàn.
Bài Thính Thục tăng Tuấn đàn cầm 聽蜀僧濬彈琴Nghe Thục Tăng Tuấn đánh đàn của Lý Bạch.
Thục tăng bão Lục Ỷ
Tây há Nga Mi phong
Vị ngã nhất huy thủ
Như thinh vạn hác tùng
蜀僧抱綠綺
西下峨嵋峰
為我一揮手
如聽萬壑松
Ôm cầm Lục Ỷ, Thục tăng
Phía tây lần xuống, qua rừng Nga My
Vì ta, tăng gảy bài nghe
Ào ào như tiếng muôn khe cây tùng
(Trần Trọng Kim dịch)