Ất Sửu trung thu hậu họa Ðông Chi thị cảm Như Vân ca nhi tại thời nguyên vận
Án Sát Quảng Bình
Sạ hoài thu tứ cảm xuân tâm
Tiêu khát Tương Như ngũ dạ cầm
Sầu khách tửu bôi nan tận túy
Não nhân thi cú vị thành ngâm
Y ngô yến ngữ oanh (1) thanh tại (2)
Tin tức ngư tiên (3) nhạn ảnh trầm
Ðịnh thị Trùng Dương giai tiết đáo
Tân mai vãn cúc phục tương tầm
Sau tiết trung thu năm Ất Sửu (1925) , họa thơ ông Ðông Chi nhớ ca nữ Như Vân
Hơi thu mới chớm lòng xuân đã nhen nhúm
Chàng Tương Như đau bệnh, canh khuya gảy đàn
Người khách sầu muộn khó cạn chén say
Câu thơ buồn bã ngâm không thành tiếng
Yến oanh còn nghe như ríu rít đâu đây
Tin tức nào chẳng thấy tăm hơi
Phải chăng tiết Trùng Dương cũng đã tới
Lại tìm cành mai mới nở, khóm cúc buổi chiều
Sau tiết trung thu năm Ất Sửu (1925) , họa thơ ông Ðông Chi nhớ ca nữ Như Vân
Tình xuân nhen nhúm lúc thu qua
Canh muộn Tương Như gảy điệu ca
Ly rượu nhớ nhung chưa uống cạn
Câu thơ buồn bã chẳng ngâm nga
Còn vang tiếng ngọc lời oanh hót
Nào chút hơi tăm bóng nhạn sa
Gặp lúc Trùng Dương trời đẹp tới
Cúc mai tìm lại mấy cành hoa
Nguyễn Hữu Vinh dịch, Taiwan, 1995
Chú Thích
Lời tác giả: Thơ làm trong thời kỳ làm quan Án Sát tỉnh Quảng Bình.
______________
1) Oanh: Chỉ chuyện nhớ nhung. Lấy ý từ chữ Liêu tây 遼西[TT] tr. 392. Liêu tây bây giờ thuộc tây bắc tỉnh Liêu Tây và phần đông bắc tỉnh Hà bắc 河北. Vào thời Đường, Lục Triều 六朝 chinh chiến liên miên, nên trong thơ văn hay dùng để chỉ chuyện chia ly vì chiến tranh. Ở đây chỉ chuyện bạn bè chia cách.
Bài "Xuân Oán" 春怨 của Kim Xương Tục 金昌緒 đời Ðường.
Ðả khởi Hoàng Oanh nhi
Mạc giao chi thượng đề
Ðề thời kinh thiếp mộng
Bất đắc đáo Liêu Tây
打起黃鶯兒
莫教枝上啼
啼時驚妾夢
不得到遼西
Ðuổi giùm hộ thiếp con oanh
Ngăn đừng bay đậu trên cành ỷ ôi
Ỷ ôi làm tỉnh giấc rồi
Tan tành mộng thiếp ra ngoài Liêu Tây
(Nguyễn Hữu Vinh dịch)
2) Toàn câu 5: Chỉ chuyện nhớ nhung, xem giải thích ở trên.