MENU CHÍNH


Lộc Minh Đình Thi Thảo


Tuồng Trương Ngáo


Đường Thi Tuyển Chọn


Log In

Username

Password

Remember Me



Việt Sử Tứ Tự Ca - Quốc Ngữ

Việt Sử Diễn Nghĩa Tứ Tự Ca

Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Hữu Vinh phiên âm


Ðây là bài ca viết về một quảng dài lịch sử hơn mấy nghìn năm, từ thời vua Ðế Minh là cháu Viêm Ðế Thần Nông thứ ba cho đến khoảng thời gian đức Thế Tổ của triều đình nhà ta lên ngôi. Nay chọn những chuyện lớn viết thành diễn ca cho đàn bà con trẻ biết được đôi điều, càng nhiều càng tốt, để khỏi làm trò cười cho thiên hạ vì không biết chuyện tổ tiên. Dù rằng đã gắng công cố sức sửa sai, thêm bớt nhưng sợ vẫn còn nhiều sai lầm, sơ sót. Mong người đọc lượng thứ cho.

Kính trình lên để xem xét.

Thái Tử Thiếu Bảo Hiệp Tá Ðại Học Sĩ quản lĩnh Học bộ Thượng Thư kiêm Lễ bộ Sự Vụ Quốc Sử Quán Tổng Tài kiêm Quốc Tử Giám sung Cơ Mật Viện đại thần Khánh Mỹ Tử Tín Trai Hồ Tướng công.

PHÊ:

Lời văn đơn giản nhưng đầy đủ chi tiết, đây là một việc làm có công lớn đối với lịch sử nước Việt của bậc vương giả.

Tháng giêng năm Khải Ðịnh thứ sáu.


Việt Sử Diễn Nghĩa Tứ Tự Ca


Hồng Nhung, tự Tiêu Khanh, Tuy Lý Quận Công nhậm chức Hữu Tham Tri bộ Lễ, sung chức Tả Tôn Khanh của Tôn Nhân Phủ.
Hồng Thiết, tự Lục Khanh, con thứ 18 của Tuy Lý Vương, Công Bộ Thị Lang, kiêm chức Nghị viên của hội Vệ Sinh.

Cùng diễn dịch.


1. Người nước Nam ta, Phải coi sử Việt, Cùng đầu đến đuôi, Chuyện chi cho biết
5. Từ họ Hồng Bàng, Làm Kinh Dương Vương, Vốn dòng Viêm đế, Phong tại nam phương
9. Con là Lạc Long, Cháu là Hùng Vương, Từ ấy hiệu nước, Gọi là Văn Lang
13. Truyền mười tám đời, Đều xưng Hùng Vương, Đặng hai nghìn sáu, Hăm hai năm trường
17. Thục An Dương Vương, Diệt nước Văn Lang, Xưng rằng Âu Lạc, Nối họ Hồng Bàng
21. Vua Thục lúc ấy, xây đắp Loa thành, xây lên bổ xuống, ai nấy đều kinh
25. Vua Thục khấn vái, Thiên địa thần linh, Bỗng thấy một người, Kim Quy hiện hình
29. Nói cùng vua Thục, Sự tích đành rành, Trong núi Thất Diệu, Nhiều loài yêu tinh
33. Oan hồn uất kết, Nên nỗi hoành hành, Xin phải trừ đi, Mới xây đặng thành
37. Vua Thục nghe theo, Nửa tháng thành rồi, Khi ấy Kim Quy, Từ biệt xin lui
41. Vua Thục nói lại, Nhờ ông đến đây, Trăm điều an ổn, Còn ngại chút này
45. Thành trì nhà nước, Nay đã vững vàng, Mai sau có giặc, Lấy chi dẹp loàn
49. Kim Quy nghe nói, Cho một móng chân, Nhắn đem làm ná, Linh động khôn ngần
53. Bắn ra một phát, Giết giặc muôn thằng, Gọi là thần nỏ, Ai địch cho bằng
57. Tần nghe cõi Nam, Rất nhiều châu ngọc, Bèn sai Triệu Đà, Đem quân đánh Thục
61. Thục có thần nỏ, Ðà địch đâu qua, Quân Triệu cùng khốn, Ðà xin giảng hòa
65. Cho con Trọng Thủy, Ðến hỏi Mỵ Châu, Trọng Thủy khôn khéo, Thục vuơng gả cho
69. Trọng Thủy thừa cơ, Coi máy thần nỏ, Mỵ Châu tin chàng, Cho chàng coi ngó
73. Không hay Trọng Thủy, Rắp sẵn mưu gian, Coi qua ngó lại, Ðổi móng rùa vàng
77. Nói cùng Mỵ Châu, Về thăm cha mẹ, Lòng toan đánh Thục, Mưu sâu tình tệ
81. Giả đò yêu dấu, Nghĩ trước suy sau, Một mai ly loạn, Biết nàng ở đâu
85. Mỗi người mỗi xứ, Ruột héo lòng đau, Vợ chồng cách trở, Ðời nào thấy nhau
89. Mỵ Châu thưa rằng, Thiếp có nệm lông, Đem theo bên mình, Há dám tiếc công
93. Thiếp đi đường nào, Bỏ ra đường ấy, Chàng đã có lòng, Trước sau cũng thấy
97. Trọng Thủy về đến, Quân Triệu kéo sang, Vua Thục cười nói, Triệu Ðà cả gan
101. Không hay thần nỏ, Máy đã mất đi, Ðem quân ra đánh, Thua chạy tức thì
105. Vua Thục chẳng biết, Rể xảo con ngu, Tin dùng Trọng Thủy, Yêu dấu Mỵ Châu
109. Ðến chừng nguy hiểm, Cầu cứu Kim Quy, Kim Quy ra nói, Giặc tại cô này
113. Mỵ Châu than thở, Trọng Thủy gian khi, Thục Vương biết đặng, Tuốt gươm giết ngay
117. Quân Triệu thừa thắng, Kéo đến liền ngày, Vua Thục thua chạy, Bèn diệt Thục đi
121. Triệu Võ đế Ðà, Gồm nước Âu Lạc, Truyền đặng năm đời, Triệu suy Hán diệt
125. Người Hán từ ấy, Quận huyện nước ta, Sai quan qua trị, Tô Ðịng gian tà
129. Người xứ An Minh, Trưng Trắc Trưng Nhị, Tuy rằng nữ nhi, Thiệt là tài trí
133. Phục thù khởi nghĩa, Đuổi Tô Định về, Giao Châu một cõi, Thâu phục sơn khê
137. Hán sai Mã Viện, Kéo thẳng binh qua, Ðánh cùng Trưng Vương, Lại lấy đất ta
141. Trưng Vương em chị, Tuẫn nạn một nhà, Xưa nay trung nghĩa, Tiếng lành đồn xa
145. Mã Viện đánh rồi, Bèn dựng đồng trụ, Lấy đất Nam giao, Giới hạn tới đó
149. Ðến sau Sĩ Nhiếp, Qua trấn Giao Châu, Mở mang văn vận, Từ ấy làm đầu
153. Thương dân dạy vẽ, Lễ nghĩa văn chương, Dân đều yêu kính, Tôn rằng Sĩ vương
157. Nam giao bờ cõi, Từ Hán đến Lương, Thuộc vào Trung Quốc, Biết mấy năm trường
161. Người nước Nam ta, Có ông Lý Bí (Bôn), Sinh xứ Thái Bình, Ða tài đa trí
165. Lương sai Bá Tiên, Ðánh cùng Lý Bí, Tô Lịch Gia Ninh, Lương đều hơn Lý
169. Lý đòi Quang Phục, Giao cho binh quyền, Lui về Liêu Ðộng, Tỵ nạn một phen
173. Ông Triệu Quang Phục, Ðặng móng rồng vàng, Ðánh đâu hơn đó, Xưng Triệu Việt Vương
177. Sau Lý Phật Tử, Đánh Triệu không xong, Cho con làm rể, Trộm lấy móng rồng
181. Quân Lý kéo đến, Cùng Triệu giao phong, Triệu vương thua chạy, Nhảy xuống biển đông
185. Phật Tử diệt Triệu, Ðô tại Phong Châu, Tùy sai Lưu Phương, Họa phúc dỗ cùng
189. Vua tôi Phật Tử, Ðều ra chịu đầu, Nam giao bờ cõi, Về Tuỳ tóm thâu
193. Đến Đường Cao Tôn, Cải hiệu An Nam, Đặt quan đô hộ, Lắm kẻ bạo tham
197. Truyền tới Ðức Tôn, Ðô hộ Chánh Bình, Gian ngoan hà khắc, Tàn hại sanh linh
201. Người xứ Ðường Lâm, Tên là Phùng Hưng, Gia tư hào phú, Trí dũng ai bằng
205. Dấy binh vây thành, Giết tên Chánh Bình, Thu phục Xích huyện,Tế độ thương sinh
209. Giàu sang dáy (nháy) mắt, Giấc bướm mơ màng, Phùng An truy tôn, Bố Cái Ðại Vương
213. Phùng An nối nghiệp, Nghe theo Triệu Xương, Nói điều lợi hại, Từ ấy đầu Ðường
217. Ðường Chiêu Tuyên đế, Hồng Châu Khúc Hạo, Tự xưng Tiết Ðộ, Nam Hán thông hiếu
221. Ðường Lâm Ngô Quyền, Thừa khi đương loạn, Dấy binh phục thù, Giết tên Công Tiện
225. Nam Hán Lưu Cung, Sai con Hoằng Tháo, Từ sông Bạch Ðằng, đem binh đến cứu
229. Ngô Quyền phá Hán, Tự xưng Ngô Vương, Ở ngôi sáu năm, Một giấc hoàng lương
233. Di chúc em vợ, tên là Tam Kha, Tam Kha tiếm vị, Xương Ngập trốn xa
237. Khá khen Xương Văn, Đánh đuổi Tam Kha, Bèn rước anh về, Cùng trị nước nhà
241. Xương Văn ra đánh, Đường Nguyễn Thái Bình, Nửa đêm trúng tên, Hoăng tại trong doanh
245. Từ ấy phiên trấn, Chiếm cứ phân vân, Trước sau mười hai, Ðều xưng sứ quân
249. Ông Ðinh Bộ Lĩnh, Người xứ Hoa Lư, Hiệu rằng Vạn Thắng, Trí dũng có dư
253. Dẹp yên các trấn, Sắp đặt trăm quan, Nước xưng Cồ Việt, Đô đóng Trường An
257. Ðinh Hoàng bị thí, Ðinh Toàn nối lên, Chỉn có hai đời, Ðặng mười ba năm
261. Tướng quân Lê Hoàng, Tư thông Dương thị, Quân Tống sang xâm, Lê Hoàng tức vị
265. Lê đặng nối Ðinh, Bởi vì Dương hậu, Bất nghĩa bất trung, Muôn năm còn xấu
269. Ðại Hành băng tồ, Trung Tôn tức vị, Mới đặng ba ngày, Ngọa Triều nghịch thí
273. Ngọa Triều gian xảo, Tàn bạo tính thành, Ðao sơn kiếm thụ, Bày đặt nghiêm hình
277. Thí nghịch soán đoạt, Lên ngôi bốn năm, Say mê tửu sắc, Bịnh nặng chết liền
281. Con là Lê Sạ, Tuổi nhỏ tài hèn, Các quan bèn rước, Công Uẩn tôn lên
285. Lý tổ tức vị, Kiến nguyên Thuận Thiên, Suốt mười tám năm, Ngoài lặng trong yên
289. Thái Tôn thủ thành, Hữu đễ rất hiền, Anh em phản nghịch, ân pháp vẹn toàn
293. Ðến đời Anh Tôn, Phụ Chánh Hiến Thành, Một lòng trung nghĩa, Chẳng khác Khổng Minh
297. Truyền đến Huệ Tôn, Không có con trai, Con gái Chiêu Hoàng, Thừa thống nối ngôi
301. Có tên Trần Cảnh, Lịch sự lạ dường, Vào hầu Chiêu Hoàng, Chiêu Hoàng rất thương
305. Thủ Ðộ bày mưu, Chiêu Hoàng nhường vị, Trần Cảnh lên ngôi, Trần bèn nối Lý
309. Thái Tôn Thánh Tôn, Truyền đến Nhân Tôn, Ba đời thịnh trị, Phẳng lặng ngoài trong
313. Nguyên sai đại tướng, Tên là Thoát Hoan, Ðến hãm kinh thành, Từ xứ Bắc Giang
317. Tôn thần trung nghĩa, Hưng Ðạo Ðại Vương, Bạch Ðằng một trận, Phá giặc tan hoang
321. Từ Trần Thái Tôn, Ðến Trần Thiếu Ðế, Thiếu Ðế thơ ngây, Quý Ly soán vị
325. Trần mười hai vua, Trăm bảy dư niên, Hậu Trần hai vua, Bảy năm mất liền
329. Quý Ly soán Trần, Nước hiệu Ðại Ngu, Truyền ngôi Hán Thương, Gìn giữ cơ đồ
333. Cha con Quý Ly, Lên ngôi sáu năm, Ðánh cùng Trương Phụ, Ðều bị sinh cầm
337. An Nam một cõi, Từ ấy về Minh, Quan Minh tham bạo, Dân bất liêu sinh
341. Lam Sơn Lê Lợi, Bèn dấy nghĩa binh, Thương hại dân ta, Ðánh đuổi quan Minh
345. Gian nguy trăm trận, Thu phục hai kinh, Mười năm bình định, Bốn bể trừng thanh
349. Thái Tôn nối trị, Tánh vốn thông minh, Hiềm vì mê sắc, Nên nỗi thương sinh
353. Nhân Tôn xung ấu, Thái hậu thuỳ liêm, Nghi Dân làm loạn, Vào thành nửa đêm
357. Nhân Tôn ngộ hại, Nghi Dân tiếm lên, Triều đình tôi cũ, Giết hại liền liền
361. Lê Xí Ðinh Liệt, Xướng nghĩa phế ngay, Bèn rước Gia Vương, Tôn lên liền ngày
365. Thánh Tôn tức vị, Gìn giữ mối giềng, Ở ngôi trí trị, Ba tám năm trường
369. Sử xưng minh chủ, Tài đức khác thường, Ví cùng Trung Quốc, Võ đế Văn hoàng
373. Hiến Tôn Túc Tôn, Truyền đến Quỷ Vương, Tin dùng ngoại thích, Tàn hại trung lương
377. Ông Nguyễn Văn Lang, Cùng ông Giản Tu, Ðem quân tam phủ, Ra đánh đông đô
381. Quỷ Vương tự vẫn, Trư Vương nối lên, Ở ngôi tám năm, Duy Sản thí liền
385. Chiêu Tôn tức vị, Ðăng Dung lộng quyền, Lòng toan soán đoạt, Chiêu Tôn ưu phiền
389. Nửa đêm xa giá, Qua xứ Sơn Tây, Ðăng Dung không kể, Chẳng rước vua về
393. Lập hoàng đệ Xuân, Tại tỉnh Hải Dương, Chiêu Tôn về kinh, Ðăng Dung cướp ngang
397. Chiêu Tôn thua chạy, Trịnh Tuy cứu giá, Nghe gièm giết hại, Trịnh Tuy tướng tá
401. Trịnh Tuy hờn giận, Hộ giá vào Thanh, Ðăng Dung bèn rước, Hoàng đệ về kinh
405. Chiêu Tôn bị bắt, Ðăng Dung thí ngay, Truyền cho hoàng đệ, Thiền vị tức thì
409. Họ Mạc soán Lê, Qua cáo Minh liền, Dâng vàng dâng đất, Minh cho chức quyền
413. Ðăng Dung lên ngôi, Mới đặng ba năm, Cho con Ðăng Doanh, Tức vị cải nguyên
417. Truyền con với cháu, Mạc Hải Mạc Nguyên, Ðến chắt Mậu Hợp, Năm đời mất liền
421. Ðức triệu tổ ta, Trước làm quan Lê, Thấy Mạc tiếm thiết, Lo sợ trăm bề
425. Ðánh Mạc chưa đặng, Lánh vào Ai Lao, Vua Lào Xạ Ðẩu, Cho ở Sầm Châu
429. Chiêu binh mãi mã, Tìm kiếm dòng Lê, Gặp được Trang Tôn, Xa giá rước về
433. Biết ông Trang Tôn, Là con Chiêu Tôn, Ngài bèn lập lên, Lập rồi tiến công
437. Ngài thấy Trịnh Kiểm, Thao lược tinh thông, Gả con Ngọc Bảo, Cho làm tiên phong
441. Ðánh cùng họ Mạc, Tại xứ Lôi Dương, Quân ta xung đột, Quân Mạc tan hoang
445. Gần xa khen ngợi, Hào kiệt văn phong, Kinh lược Thanh Nghệ, Theo ngọn cờ hồng
449. Quân đến Tây đô, Tướng Mạc ra đầu, Tên là Chấp Nhất, Kế hiểm mưu sâu
453. Thấy ngài trí dũng, Liệu địch không qua, Đặt bày yến tiệc, Bỏ độc vào trà
457. Rước mời gắn bó, Triệu tổ chẳng ngờ, Nửa đêm về doanh, Tướng tinh phút lờ
461. Phù Lê diệt Mạc, Công nghiệp gần thành, Trang Tôn nghe tin, Thương tiếc hãi kinh
465. Giao cho Trịnh Kiểm, Tiết chế các doanh, Ðô soái tướng tá, Ðánh cùng mạc binh
469. Con thứ hai ngài, Là đức Thái Tổ, Công tuy đã nhiều, Tuổi còn đương nhỏ
473. Nối theo chí trước, Phò Lê rất trung, Trịnh Kiểm nghi kỵ, Lo sợ khôn cùng
477. Nói cùng Ngọc Bảo, Vào trấn phía trong, Ô Châu ác địa, Thiệt cũng cam lòng
481. Trịnh Kiểm nghĩ rằng, Ô Châu một chỗ, Tâu cho vào trấn, Trước sau cũng khổ
485. Thái tổ thấy chỉ, Lãnh thuyền kéo vô, Đến nơi Quảng Trị, Gây dựng cơ đồ
489. Muôn năm đế nghiệp, Từ ấy mà ra, Thần truyền thánh kế, Mở mang nước ta
493. Mới đặng chín đời, Ðến đời Hiếu Ðịnh, Ngoại thích Phúc Loan, Chuyên quyền loạn chánh
497. Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Ở đất Bình Ðịnh, Bèn cùng Tập Ðình, Dẫn binh ra đánh
501. Trịnh sai Ngũ Phúc, Cùng kéo binh vô, Kể tội Phúc Loan, Xin phải nên tru
505. Các quan vâng chỉ, Ðem nạp Phúc Loan, Ai hayNgũ Phúc, Nói khác mưu gian
509. Lại đưa thư rằng, Anh em Nguyễn Nhạc, Chiếm cứ Quy Nhơn, Tung hoành bạo ngược
513. Xin đem quân Trịnh, Giúp với quan quân, Ðồng lòng hết sức, Trừ giặc cứu dân
517. Ngũ Phúc gian kế, Duệ Tôn chưa nghe, Quân Trịnh xông tới, Quân ta lui về
521. Ðánh nhau mấy trận, Quan quân đều thua, Ngài vào Quảng Nam, Bèn mất kinh đô
525. Gặp quân Nguyễn Nhạc, Ðến từ Bình Ðịnh, Trước sau đều giặc, Duệ Tôn nam hạnh
529. Lập hoàng tôn Dương, Xưng rằng Ðông cung, Trấn tỉnh Quảng Nam, Xem xét ngoài trong
533. Nhạc sai Tập Ðình, Ðem quân đến đánh, Bèn rước Ðông cung, Ðem về Bình Ðịnh
537. Nửa đêm Ðông cung, Ði theo thương thuyền, Chạy vào Gia Ðịnh, Năm ngày đến liền
541. Trịnh Hoàng Ngũ Phúc, Kéo thẳng binh vô, Ðành cùng Nguyễn Nhạc, Quân Nhạc đều thua
545. Nhạc bèn khiến sứ, Tới yết Trịnh Doanh, Xin cùng Ngũ Phúc, Tình nguyện đầu thành
549. Trịnh cho Nguyễn Nhạc, Làm chức Tướng quân, Lại sai Bùi Ðạt, Vào trấn Phú Xuân
553. Duệ Tôn lúc ấy, Gặp hoàng tôn Dương, Bèn thiền vị cho, Xưng Tân Chánh Vương
557. Nhạc sai Huệ Lữ, Vào đánh Sài Gòn, Quân giặc tàn bạo, Quân ta hao mòn
561. Vương qua Hương Ðôi, Ngài tới Long Xuyên, Giặc bèn đuổi theo, Ðều tuẫn nạn liền
565. Ðức Cao hoàng ta, Ði theo Duệ Tôn, Gian nguy lắm lúc, Lao khổ khôn cùng
569. Duệ Tôn vẫn biết, Tài đức hơn người, Phục cơ nghiệp cũ, Thường nói cùng ngài
573. Gặp cơn quốc biến, Còn đương thiếu niên, Nguyên soái nhiếp chính, Các tướng tôn lên
577. Năm thứ Mậu Tuất, Ngài nhiếp quốc chính, Thu phục Sài Gòn, Trú tất Gia Ðịnh
581. Năm ấy tháng năm, Nguyễn Huệ vào đánh, Quân ta đều thua, Bèn mất Gia định
585. Ðến năm Kỷ Hợi, Mùa xuân tháng ba, Quan quân thu phục, Gia định về ta
589. Canh Tý nguyên niên, Ngài tức vương vị, Dùng Lê Cảng Hưng, Niên hiệu Giáp Tý
593. Năm Dần tháng hai, Nguyễn Huệ nhập khấu, Ngài ra Phú Quốc, Côn Lôn các đảo
597. Bèn sai Ða Lăng, Bảo hộ Ðông cung, Qua xin Ðại Pháp, Ðem binh giúp cùng
601 Đại Pháp lúc ấy, Nhiều việc chưa cho, Nên ông Đa Lăng, Rất đỗi sợ lo
605. Bèn đem Ðông Cung, Trở về Ấn Ðộ, Mời anh em bạn, Hai ông quan võ
609. Tên là Ða Du, Lại với Ni Ê, Hai chiếc tàu binh, Một đoàn kéo về
613. Ngài thấy Ðông cung, Cùng ông Ða Lăng, Ða Du Ni Ê, Mừng rỡ khôn ngần
617. Lúc trước Ða Lăng, Có tiến mấy ông, Ðều người Ðại Pháp, Trung nghĩa khôn cùng
621. Buổi ấy lấy đặng, Hạ du Gia định, Sai ông Ni Ê, Giữ gìn mấy tỉnh
625. Lại sai Ða Du, Qua tiểu Lữ Tống, Cùng xứ Áo Môn, Mua tàu mua súng
629. Ông Tào Mạn Hoè, Thiệt là trung liệt, Ðánh cùng Nguyễn Huệ, Trận tiền tử tiết
633. Sắc cho Mạn Hoè, Thờ vào Hiển Trung, Giám Mu.c Ða Lăng, Tấn tước quận công
637. Lúc ấy theo ngài, Các quan Ðại Pháp, Ai có công lao, Ơn đền nghĩa đáp
641. Kể từ bôn ba, Chốc đã mười thu, Tháng giêng năm Thìn, Ngài tại Thổ Chu
645. Qua Xiêm cầu viện, Vua Xiêm viện cho, Về đánh Tây Sơn, Quân Xiêm cũng thua
649. Ngài lại qua Xiêm, Ở Vọng Các thành, Truyền cùng các tướng, Ðồn điền mộ binh
653. Năm Ngọ Nguyễn Huệ, Ra đánh Bắc Kỳ, Phá tan quân Trịnh, Yết kiến vua Lê
657. Hiển Tôn run sợ, Thụ bệnh băng tồ, Huệ lập Chiêu Thống, Rồi kéo binh vô
661. Nguyễn Nhạc xưng đế, Chiếm cứ Bình Ðịnh, Nguyễn Huệ truyền hịch, Dẫn binh vào đánh
665. Nhạc than cùng Huệ, Thịt xáo nồi da, Huệ thấy khốn cùng, Mới cho giảng hòa
669. Ðương khi Huệ Nhạc, Anh em đánh nhau, Ông Tống Phước Ðạm, Ðến Xiêm gửi tấu
673. Gia Ðịnh sơ phòng, Xin Ngài về đánh, Tháng tám năm Thân, Thu phục Gia Ðịnh
677. Huệ nghe Nguyễn Chỉnh, Ở đất Bắc Kỳ, Giả làm trung nghĩa, Diệt Trịnh phò Lê
681. Sai Vũ Văn Nhậm, Ðem binh ra đánh, Lấy thành Thăng long, Giết tên Nguyễn Chỉnh
685. Lạ thay Nguyễn Huệ, Lại ra Long Biên, Văn Nhậm tới hầu, Truyền đem chém liền
689. Nguyễn Huệ lúc ấy, Lấy hết Bắc kỳ, Giết rồi Văn Nhậm, Đòi các quan Lê
693. Truyền cho Tiến Tôn, Đều dâng một biểu, Ông Nguyễn Huy Trạc, Uống thuốc chẳng chịu
697. Huệ thấy Huy Trạc, rất nỗi kinh nghi, Quyền lập Duy Cẩn, Ðem quân trở về
701. Giao Ngô văn Sở, Gìn giữ Bắc thành, Lê hậu qua Tàu, Cáo cùng đại Thanh
705. Thanh sai Sĩ Nghị, Suất Mãn Hán binh, Phục Lê trừ tặc, Tế độ sanh linh
709. Sĩ Nghị mới đến, Tuyên phong Lê hoàng, Sửa sang rường mối, Sắp đặt quân quan
713. Nguyễn Huệ nghe báo, Dâng thư xin hàng, Sĩ Nghị tin lấy, Sơ suất phòng gian
717. Giáo cờ xếch xác, Ðêm khuya canh tàn, Nguyễn Huệ biết đặng, đốc suất quân quan
721. Kiến nguyên tức vị, Thẳng ra một đường, Ðến lũy Ngọc Hồi, Tàu chẳng cho sang
725. Ðánh cùng quân Tàu, Phá Tàu tan hoang, Quân Tàu thua chạy, Lui về Nam quan
729. Nguyễn Huệ khiến sứ, Qua Tàu tạ tội, Xin cho chức quyền, Giữ gìn bờ cõi
733. Thanh biết gian khi, Nghĩ đánh chẳng đặng,Chi bằng cho đi, Ắt tiêu bên hấn
737. Lê chúa đến Thanh, Lại xin viện binh, Càn Long không cho, Băng tại Yên kinh
741. Năm Tý năm Sửu, Huệ Nhạc chết liền, Quan quân thu phục, Bình Ðịnh Phú Yên
745. Giữ thành Bình Ðịnh, Tướng giặc ra đầu, Ngài sai Võ Tánh, Lại với Tùng Chu
749. Hai người ra sức, Gìn giữ thành này, Dũng Diệu tướng giặc, Ðem quân đến vây
753. Ngài truyền Võ Tánh, Bỏ thành ra ngoài, Võ Tánh dâng sớ, Tâu mật cùng ngài
757. Ðây nhiều quân giặc, Ngoài Huế không hư, Xin phải thừa cơ, Ra lấy kinh sư
761. Năm Dậu tháng năm, Ngài suất đại binh, Vào cửa Tư Hiền, Khắc phục cựu kinh
765. Sai Lê Văn Duyệt, Cứu viện Võ Tánh, Dẫn binh gấp vào, Giải vây Bình Ðịnh
769. Bình Ðịnh thành hãm, Tiêu tức mới biết, Tôn Tánh Tùng Châu, Tiến huyên tử tiết
773. Các quan đều xin, Tức vị kiến nguyên, Ngài truyền chỉ rằng, Giặc còn chưa yên
777. Rồi đến năm sau, Thân chinh Bắc thành, Sinh cầm Quang Toản, Tặc đảng tận bình
781. Kể từ Nguyễn Huệ, Vào đánh Đồng Nai, Mất đi phục lại, Biết mấy mươi hồi
785. Phục thù báo oán, Chí quyết chẳng sai, Phương chi thánh đức, Văn võ gồm tài
789. Điềm lành sự lạ, Hiển hiện hoài hoài, Sấu ngăn thuyền lại, Trâu lội qua vời
793. Gió to nước ngặt, Ngoài đảo giữa khơi, Gian nan lắm lúc, Nguy hiểm đòi nơi
797. Dẹp yên nghịch tặc, Ba mươi năm trời, Nhất thống Nam Việt, Bờ cõi trong ngoài
801. Truyền con cháu chắt, Biết mấy muôn đời, Cho hay lịch số, Trời hiệp theo người
805. Coi trong sử Việt, Chuyện lớn kể ra, Chấp chỉnh lời quê, Làm diễn nghĩa ca


Created on 06/26/2006 02:53 AM by HoaiHuong
Updated on 12/06/2006 03:50 AM by NHV
 Printable Version

What's Related

These might interest you as well
Announcements

Web Pages

Documents

Photo Albums

Bulletin Board


Font chữ Nôm

Để đọc được tất cả các chữ Nôm trên trang web này, xin cài đặt hai bộ font HAN NOM A và HAN NOM B. Xin xem hướng dẫn tại trang web của Viện Việt Học.

Đề thi Trắc nghiệm môn Toán, Tú Tài II, 1973-1974


Stats

Web Pages:  360

This Site is powered by phpWebSite © phpWebSite is licensed under the GNU LGPL
Contact webmaster: hoaihuongime@yahoo.com