MENU CHÍNH


Lộc Minh Đình Thi Thảo


Tuồng Trương Ngáo


Đường Thi Tuyển Chọn


Log In

Username

Password

Remember Me



Nguyễn Bính

Nguyen Binh

Đọc thơ Nguyễn Bính

Trước khi viếng nhà lưu niệm thi sĩ ở Sàigòn, tháng 3-07

NGUYỄN VĂN SÂM

1. Viếng Hồn Trinh Nữ (1937)

Tác giả chọn đề tài độc đáo: Thương tiếc một người con gái nằm xuống khi tuổi còn xanh dầu mình không quen biết. Ông khéo léo hình dung ra những sinh hoạt thiếu nữ của nàng trước khi mất để làm nổi bật hơn tính cách bi đát. Những hình ảnh phụ như người mẹ, mấy đứa em, người để ý nàng... được thêm vào để minh họa sự luyến tiếc của người thân thương. Càng bi thương hơn khi ông nói: rồi mọi chuyện sẽ qua đi, hình ảnh về nàng sẽ chìm vào quên lãng của thời gian… Bài thơ gồm nhiều chữ "trắng" để diễn tả sự tang tóc, đồng thời hàm ngụ ý trinh bạch của thiếu nữ và cái họ Bạch của nàng. Bài thơ man mác buồn, dầu chữ dùng thiệt là đơn giản và ý được trải rộng ra quá nhiều. Bài nầy chịu ảnh hưởng của giai đoạn thi ca lãng mạn và cũng tác động mạnh lên sự lãng mạn của những thi nhân đồng thời. (Nguyễn Văn Sâm)


Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh,
Tơ liễu thi nhau chảy xuống hồ,
Tôi thấy bên tôi và tất cả,
Kinh thành Hà Nội quấn khăn sô.

Nước mắt chạy quanh tình thắt lại,
Giờ đây tôi tiễn một người về,
Giờ đây tôi thấy lòng đau đớn,
Như có ai mời chén biệt ly.

Sáng nay vô số lá vàng rơi,
Người gái trinh kia đã chết rồi,
Có một chiếc xe màu trắng đục,
Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi.

Đem đi một chiếc quan tài trắng,
Và những vòng hoa trắng lạnh người,
Theo gót những người khăn áo trắng,
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.

Để đưa nàng tới nghĩa trang nầy,
Nàng tới đây rồi ở lại đây,
Ờ nhĩ hôm nay là mấy nhỉ?
Suốt đời tôi nhớ mãi hôm nay.

Sáng nay sau một cơn mưa lớn,
Hà nội bừng lên những nắng vàng,
Có những cô nàng trinh trắng lắm,
Buồn rầu theo gót bánh xe tang.

Thế là xa cách mãi mà thôi,
Tìm thấy làm sao được bóng người,
Vừa mới hôm qua còn thẹn thẹn,
Tay cầm sáp đỏ để lên môi.

Chiếc áo màu xanh tựa nước hồ,
Nàng vừa may vội gió đầu thu,
Gió thu còn lại bao nhiêu gió,
Chiếc áo giờ đây ở dưới mồ.

Chắc hẵn những đêm như đêm qua,
Nàng còn say mộng ở chăn hoa,
Chăn hoa ướp một trời xuân sắc,
Cho tới tàn canh tan trống gà.
Chắc hẵn những đêm như đêm kia,
Nửa đêm lành lạnh gió thu về,
Nàng còn thao thức ôm cho chặt,
Chiếc áo nhung mềm tựa giấc mê.

Nhưng sáng hôm nay nàng lặng im,
Máu đào ngừng lại ở nơi tim,
Mẹ già xé vội khăn tang trắng,
Quấn vội lên đầu mấy đứa em.

Người mẹ già kia tuổi đã nhiều,
Đã từng đau khổ biết bao nhiêu,
Mà nay lại khóc thêm lần nữa,
Nước mắt còn đâu buổi xế chiều.

Những đứa em kia chưa khóc ai,
Mà nay đã khóc một người rồi,
Mà nay trên những môi ngoan ấy,
Chẳng được bao giờ gọi "Chị ơi!"

Nàng đã qua đời để bữa nay,
Có chàng đi hứng gió heo may,
Bên đường để mặc mưa rơi ướt,
Đem mãi bâng quơ những gót giầy.

Người ấy hình như có biết nàng,
Có lần toan tính chuyện sang ngang,
Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé,
Đã cắm ngàn thu ở suối vàng.

Có gì vừa mất ở đâu đây,
Lòng thấy mềm hơn rượu quá say,
Hốt hoảng chàng tìm trong bóng tối,
Bàn tay lại nắm phải bàn tay.

Chỉ một vài ba năm thế rồi,
Người ta thương nhớ có ngần thôi,
Người ta nhắc đến tên nàng để,
Kể chuyện nàng như một chuyện vui.

Tôi với nàng đây không biết nhau,
Mà tôi thương nhớ bởi vì đâu?
Than ôi: "Tự cổ bao người đẹp
Chẳng hẹn trần gian đến bạc đầu."

2. Tương Tư (1939)

Chuyện tình tự kể. Những hình ảnh nông thôn được sử dụng, những thống trách mang hơi hướm của người đồng quê chơn chất làm cho sự tương tư trở nên lung linh đẹp. Hàng loạt câu hỏi và lời tự giải thích biểu lộ cái yêu đã sâu đậm nhưng không được đáp ứng. Tác giả giấu cái thất bại trong tình yêu khi so sánh nỗi tương tư của mình với chuyện nắng mưa của trời đất. Câu hỏi cuối bài là câu đánh đố đáng yêu gởi đến ai kia: "Anh nhớ ai em có biết không?" (Nguyễn Văn Sâm)
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Nắng mưa là chuyện của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

3. Chân quê (1936)

Sự đổi đời lúc nào cũng có. Những thay đổi nho nhỏ bên ngoài tưởng chừng là xao động bề mặt, nhưng thật sự là mầm chối bỏ quá khứ, xóa bỏ chân quê để ướm lốt thị thành. Cố gắng níu kéo cái đẹp đơn sơ ban đầu là một cố gắng tuyệt vọng vì sẽ thất bại. (Nguyễn Văn Sâm)
Hôm qua em đi tỉnh về,
Đợi em ở mãi con đê đầu làng.
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng,
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Nói ra sợ mất lòng em,
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa.
Như hôm em đi lễ chùa,
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh!
Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều!



4. Oan nghiệt (1941)

Những suy nghĩ vẩn vơ, ý nầy kéo ý kia của thi sĩ khi nghe tin người vợ cũ sanh con gái. Trong tưởng tượng có cái lo lắng cho kiếp đời đau khổ có thể xảy ra oan nghiệt của con mình. Mấy câu trở thành cổ điển: "Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ/Nghèo lắm con ôi! Bạc lắm con" là một lời dặn, một lời tự trách, tự biện. Tác giả dẫn "Tỳ Bà Hành" thiệt là hay! (Nguyễn Văn Sâm)

Hôm nay bắt được thư Hà Nội,
Cho biết tin Dung đã đẻ rồi.
Giờ sửu, tháng ngâu, ngày nguyệt tận,
Bao giờ tôi biết mặt con tôi?
Nào xem thử đoán tên con gái,
Oanh, Yến, Đào, Trâm, Bích, Ngọc, Hồi?
Tôi biết vô tình Dung lại muốn,
Con mình mang lấy nghiệp ăn chơi.
Ngọc nữ trót sinh vào tục lụy,
Đời con rồi khổ đấy con ơi!
Mẹ con đeo đẳng nghề ca xướng,
Nuôi được con sao, giời hỡi giời!
Mẹ con chỉ đợi hồng đôi má,
Chỉ đợi chiều xuân kia thắm tươi.
Hôn con một chiếc hay là khóc,
Rồi gởi cho người thiên hạ nuôi.
Mẹ con nịt vú cho tròn lại,
Chiều cái hoang đàng lũ khách chơi.
Đời cha lưu lạc quê người mãi,
Kiếp mẹ đêm đêm bán khóc cười.
Có mẹ có cha mà đến nỗi,
Miệng đời mai mỉa gái mồ côi.
Vài ba năm nữa con khôn lớn,
Uốn lưỡi làm sao tiếng "mẹ ơi!"
Đời em xuống dốc tôi lên dốc,
Nào có vui gì, khổ cả đôi.
Sương chiều gió sớm bao đơn chiếc,
Bướm lại ong qua mấy ngậm ngùi.
Sắt son một chuyến giăng còn sáng,
Tâm sự đôi dòng nước chảy xuôi.
Cỏ bồng trở lại kinh kì được,
Hoa đợi hay bay xứ khác rồi.
Vô khối ngọc trong the thắm đấy,
Dung còn chung thủy nữa hay thôi?
Rồi có một đêm màn rủ thấp,
Ngã vào tay một khách làng chơi.
Em có nghĩ rằng trong hắt hủi,
Con mình trằn trọc cánh tay ai?
Em có nghĩ rằng trong quán trọ,
Đầu tôi lại gối cánh tay tôi?
Cha mẹ đã không nuôi dạy được,
Con là phận gái hạt mưa sa.
Chân bùn tay lấm hay hài hán,
Hay lại bình khang lại nguyệt hoa?
Cành đưa lá đón theo đời mẹ,
Phách ngọt đàn hay tục xướng ca.
Cha lo ngại lắm là con gái,
Chẳng có bao giờ biết mặt cha!
Con mười sáu bảy xuân đương độ,
Cha bốn năm mươi chửa trót già.
Cha buồn tiễn khách hơi thu quạnh,
Con thẹn che đàn nửa mặt hoa.
Chàng chàng thiếp thiếp vui bằng được,
Bố bố con con chẳng nhận ra.
Một lứa bên giời chung lận đận,
Thương nhau cha soạn khúc Tì bà.
Áo xanh mà ướt vì đêm ấy,
Tội nghiệp đời con, xấu hổ cha.
"Khóm cúc tuôn đôi dòng lệ cũ
Con thuyền buộc một mối tình nhà..."
Giờ đây cha khóc vì thương nhớ,
Gửi vọng về con một chiếc hôn.
Tiền cha không đủ hoàn lương mẹ,
Còn lấy đâu mà nuôi nấng con?
Thôi cha cầu chúc cho con gái,
Mắt chớ lưu cầu môi chớ son.
Càng tài sắc lắm càng oan nghiệp,
"Bảy nổi ba chìm với nước non."
Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ,
Nghèo lắm con ơi! Bạc lắm con!
Ở đây cha khóc mà thương nhớ,
Đất Huế dầm mưa mấy tháng tròn...
Huế, 1941

5. Rắc bướm lên hoa

Những câu hỏi là cũng những câu than. Những cảnh đẹp cũng là cảnh khổ. Người đọc bàng hoàng với hai chữ "rắc", "nhuộm" của thi sĩ: sinh động, đồng thời cho thấy viễn ảnh xấu. Hạnh phúc và đau khổ đan xen, sanh hóa. Đây không là lời trách phiền tình phụ mà là lời trách móc cuộc đời đã sanh ra cái nếp phụ tình. (Nguyễn Văn Sâm)
Ai đem rắc bướm lên hoa
Rắc bèo xuống giếng, rắc ta vào nàng?
Ai đem nhuộm lá cho vàng?
Nhuộm đời cho bạc, cho nàng phụ ta?

Nguoi Hang Xom

Người Hàng Xóm

Nha luu niem NgBinh

Nhà lưu niệm Nguyễn Bính

NgBinh Dong Ho

Nguyễn Bính và các bạn thơ

Từ trái sang phải: Nguyễn Bính, thi sĩ Đông Hồ, và các bạn

Created on 07/09/2007 03:21 AM by HoaiHuong
Updated on 07/13/2007 06:34 PM by HoaiHuong
 Printable Version

What's Related


Font chữ Nôm

Để đọc được tất cả các chữ Nôm trên trang web này, xin cài đặt hai bộ font HAN NOM A và HAN NOM B. Xin xem hướng dẫn tại trang web của Viện Việt Học.

Đề thi Trắc nghiệm môn Toán, Tú Tài II, 1973-1974


Stats

Web Pages:  360

This Site is powered by phpWebSite © phpWebSite is licensed under the GNU LGPL
Contact webmaster: hoaihuongime@yahoo.com