MENU CHÍNH


Lộc Minh Đình Thi Thảo


Tuồng Trương Ngáo


Đường Thi Tuyển Chọn


Log In

Username

Password

Remember Me



LMDTT-Thơ chữ Hán của Ưng Bình Thúc Giạ Thị

Thơ chữ Hán “Lộc Minh Ðình Thi Thảo” của Ưng Bình Thúc Giạ Thị

Ðêm tháng bảy âm lịch, trời Taipei vào tiết thu sang. Mưa lách tách trên lá, gió xì xào trên cây. Hơi thu nhẹ thoảng, lòng người cũng vì thế mà chùng xuống, nhớ nhung bâng quơ. Tôi tỉnh lại với thực tại vì chợt nhớ tới mấy câu thơ chữ Hán của Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự:
… Ngã diệc tình si trung vị lão
Ngân hà viễn vọng tứ du du…
(Tình si ta cũng người trong cuộc
Ngắm hướng dòng Ngân luống ngậm ngùi)

Nguyễn Hữu Vinh biên soạn

Mối duyên thơ giữa tôi và thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị cũng bắt đầu từ đêm Thất tịch (ngày 7 tháng 7 âm lịch) hôm ấy. Tôi bắt đầu đi vào thế giới thơ chữ Hán của thi ông qua tập thơ “Lộc Minh Ðình Thi Thảo” (*). Tôi có duyên may được nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của thi ông, tặng cho bản sao photocopy cuốn “Lộc Minh Ðình Thi Thảo” gồm tất cả các bài thơ viết bằng chữ Hán của thi ông. Tôi đã bị lôi cuốn ngay từ đầu, chữ Hán viết bằng tay, đều đặn, đẹp như in. Và cũng từ đêm đó, tôi quyết định chuyển dịch ra thơ chữ Việt, gần 4 năm sau mới hoàn thành, và cũng cho tới bây giờ tôi vẫn bị lôi cuốn mãi hoài bởi những dòng thơ dạt dào, dấy lên những rung động sâu xa trong lòng người.

Chúng ta đã thưởng thức Thơ, Ca Huế, Ca Trù, Hò, Tuồng bằng chữ Việt của thi ông, nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nhắc đến thơ chữ Hán là một điều thiếu sót lớn. Thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam tất cả 197 bài thơ chữ Hán, nếu kể từng bài thơ thuộc loại tám câu, thì thi ông đã sáng tác hơn 200 bài theo lối thơ Đường luật. Phần nhiều đều là những bài thơ thật tuyệt vời về hình thức lẫn nội dung.
Cuộc đời Ưng Bình Thúc Giạ Thị là cuộc đời của những bậc đường quan, và cũng là của những kẻ tao nhân mặc khách. Gió mát, trăng thanh, cảnh đẹp, trời thu, tình bạn đều là những yếu tố cần thiết, là nguồn thơ không thể thiếu. Phần nhiều các thi sĩ sống và sáng tác lấy sự cô đơn, sự khổ đau làm lẽ tự nhiên cho nguồn sáng tạo. Thi ông thì trái lại, lấy tình người làm gốc chốt, lấy ngoại cảnh thiên nhiên để cảm hứng, để dệt thành những vần thơ ngọt ngào, thanh thoát và đầy ắp tình người luyến lưu, đậm đà. Thi ông thường hứng tạo những vần thơ đầy ắp tình người trong những lúc cùng bè bạn ngao du, chơi thuyền, leo núi; hay trong những lúc ngâm thơ xướng họa, hay trong những lúc hò hát, hay trong những phút nhớ nhung vì xa cách. Có thể nói rằng trong những yếu tố tạo nên phong thái thơ ca của thi ông thì bạn bè, ca nữ và phong cảnh thiên nhiên đã đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu.
Tập thơ chữ Hán của thi ông hầu như là tập thơ hoạ với thơ của các bạn thơ. Thi ông có rất nhiều bạn bè. Lúc về già thì có Hương Bình Thi Xã, khi còn trẻ thì thường hay hoạ thơ và nhắc nhở đến nhiều lần với mối cảm tình nồng nàn, đậm đà là những người như ông Thúc Thuyên, Đông Chi, Ðông Trì và Hà Thiếu Trai. Thi sĩ thì ai cũng lắm tình, nhưng mối tình ruột thịt của thi ông đã đặc biệt đành Thúc Thuyên thì thật là đậm đà, được thể hiện qua tám bài thơ còn để lại trong tập thơ chữ Hán có liên quan đến Thúc Thuyên. Quan Thượng Thư Thúc Thuyên, không ai khác hơn là người em ruột của thi ông, tuổi tác gần kề, cũng yêu thơ và cũng là quan lớn trong triều đình nhà Nguyễn. Đều cùng là những bậc đại quan trong triều, cả hai người đều phải rày đây mai đó, nhậm chức ở những nơi xa. Anh em hiếm lúc đoàn tụ sinh sống bên nhau. Tuy nhiên không phải vì thế mà tình cảm anh em ruột thịt xa mặt cách lòng. Năm Ất Hợi (1935), lúc Thúc Giạ về hưu được hai năm thì Thúc Thuyên mất. Thi ông khóc em thống thiết như sau :

Bính Tý thu nguyệt nhị thập lục nhật vãn chu quá Hiệp Quỹ Thúc Thuyên cố đệ lương đình tân thứ hữu cảm. Bộ Quất Ðình tiên sinh nguyên vận

Kỳ nhất
Thanh thảo trì đường mộng dĩ phi
Tẩy bôi giang thượng điếu tà huy
Lương đình cổ độ kinh qua xứ
Trường đoạn lô hoa không tự phi

Kỳ nhị
Nhạn trận kinh hàn ỷ bích không
Thu thâm phong diệp bán phi hồng
Mỗi tư sách họa lương đình cú
Lệ sái giang đầu khấp vãn phong

Kỳ tam
Thử địa phồn hoa kim dĩ không
Thảo hoa do chiếu tịch dương hồng
Lưu thương khúc thủy liêu tân cú
Duy hữu ngư ca thu dạ phong

Chiều ngày 26 mùa thu năm Bính Tý (1936) chèo thuyền ngang qua đình hóng mát của người em quá cố là quan Hiệp Quỹ Thúc Thuyên. Cảm lòng họa theo bài thơ của ông Quất Ðình.

Bài số một
Cỏ xanh ao nước mộng tan rồi
Rót rượu trên sông cúng nắng rơi
Qua bến đò xưa đình hóng mát
Hoa lau phất phới dạ tơi bời

Bài số hai
Lạnh về đàn nhạn vút trời xanh
Thu muộn vàng trông ngập lá cành
Nhớ thuở họa thơ đình hóng mát
Gió chiều rào rạt lệ rơi nhanh

Bài số 3
Ðâu rồi đây chốn thắm vườn hoa
Hoa cỏ còn trông rực nắng tà
Rượu đổ sóng vờn buồn chẳng nói
Ðêm thu gió lộng tiếng chài ca
Nguyễn Hữu Vinh biên soạn

Thúc Giạ nhìn cảnh cũ, lau lách vẫn như xưa, phất phơ theo làn gió nhẹ, rót chén rượu đổ xuống dòng nước chảy dưới ánh nắng chiều đỏ ối để tưởng nhớ người xưa. Trời gió mùa thu xứ Huế đã trở về, cây lá bên bờ sông đã trở vàng, nhớ lúc xưa, ở đây ta cùng em xướng họa, mà nay chỉ còn tiếng gió rì rào, nước mắt Thúc Giạ lả tả rơi. Người bây giờ ở đâu? Những cành hoa xưa còn đó, vẫn nở rộ, vẫn rực rỡ dưới ánh chiều tà, nay chỉ còn yên lặng. Rót chén rượu cúng xuống dòng sông, nghe gió thu trên sông lồng lộng, đâu đây văng vẳng tiếng ca của thuyền chài.

Trong 197 bài thơ chữ Hán còn lưu lại, thi ông đã dành gần 15 bài thơ hoạ với ông Hà Ngại. Đây là số tỉ lệ lớn nhất về thơ hoạ của thi ông với bạn bè. Thi ông quen biết với ông họ Hà từ lúc còn làm Tri Phủ huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Tình bạn cứ kéo dài cho tới lúc về hưu và nhất là lúc tuổi gần về trời, thi ông với ông họ Hà có rất nhiều bài thơ hoạ tuyệt tác.

Đáp hoạ Bình Định Quan Sát sứ Hà Thiếu Trai trung thu cảm tác nguyên vận.

Thu khứ thu lai thu hựu thu
Hợp ly ly hợp kỷ thời hưu
Tài hoa ngã thặng Uyên Minh kính
Tuyển cú quân đăng Dữu Lượng lâu
Giang tế oanh ca thôi cựu mộng
Vân biên nhạn tín giải tân sầu
Tự liên sấu cốt sai thi cốt
Nan đạo thừa tra tác viễn du

Hoạ đáp thơ Trung thu cảm tác của quan Án Sát Bình Định Hà Thiếu Trai.

Thu đến thu đi đã mấy mùa
Hợp tan tan hợp đến bao giờ
Uyên Minh vườn cũ tôi trồng cúc
Dữu Lượng trên lầu anh vịnh thơ
Đầu bến giọng oanh ru mộng cũ
Chân trời bóng nhạn báo tin chờ
Tìm thơ mòn mỏi đà gầy cọm
Phải dạo thuyền chơi chuyện chẳng đùa
Nguyễn Hữu Vinh dịch

Thi ông thường hay đàm đạo và xướng họa với Thượng Thư ở bộ Kinh Tế là Nguyễn Khoa Kỳ, Hộ bộ Thượng Thư Bình Nam Nguyễn Khoa Tân v.v. thuộc dòng họ Nguyễn Khoa, một vọng tộc ở Huế, con cháu của Nguyễn Khoa Ðăng, làm quan đến chức Nội Tán Hầu thời chúa Nguyễn.

Lưu đề An Lạc tự
Tự chủ Kinh tế bộ Thượng thư Nguyễn Khoa Kỳ tiên sinh.

Kỳ nhất
Bình sơn sơn hạ thiểu chinh trần
Hệ mã chiêu đề vấn chủ nhân
Thân thị trủng thần tâm thị Phật
Nhật đàm kinh tế dạ kinh văn

Kỳ nhị
An Lạc đình viên an lạc thân
Thuỷ quang sơn sắc tĩnh phong trần
Danh lam thị xứ thuỳ vi chủ
Hán tướng Ðường tăng diệc thử nhân

Kỳ tam
Cổ bách thương tùng bạn thuý lâu
Diễm đàm danh thế hữu danh lưu
Bốc cư thử địa phi vô ý
Mao thổ tương lân Nội Tán Hầu

Ðề thơ ở chùa An Lạc
Chủ chùa là Thượng thư bộ Kinh Tế Nguyễn Khoa Kỳ


Bài số 1
Nấp dưới non Bình cảnh lặng yên
Ðến thăm thử hỏi chủ nhân xem
Thân làm quan lớn tâm là Phật
Kinh tế lo ngày kinh tụng đêm

Bài số 2
Chùa vườn An lạc chốn tu thân
Cảnh vật nên thơ rửa bụi trần
Ðây chốn danh lam ai hỏi chủ
Chùa tăng là cũng bậc triều thần

Bài số 3
Tùng bách rờn xanh một cảnh lầu
Tiếng dòng danh giá đã từ lâu
Nơi đây đã cố đem lòng chọn
Gần đất lăng quan Nội Tán Hầu
Nguyễn Hữu Vinh dịch

Suốt cuộc đời thi ca của thi ông, ca nhi cũng đóng 1 vai trò không kém phần quan trọng. Từ lúc làm quan ở các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình và Hà Tĩnh, thi ông có khá nhiều cô đào hát ca Huế, ca Trù thân thiết; cũng như vào thời sống cuộc đời hưu dật ở Huế, các nàng đào vẫn quây quần bên thi ông và còn lưu lại tiếng tăm trong thơ chữ Hán như các nàng: Mộng Vị, Lai Châu, Hữu Hạnh, Ðại Châu, Ðại Hàn, Như Vân, Tuyết Ngọc, A Thanh, Kim Cúc, Ngọc Sương, Tường Vi, Lục Hà, Cúc Anh, Ngọc Giám v.v. Thi ông vui thú với ca Huế, ca Trù, với tiếng đàn, lời ca, giọng ngâm, rượu nhắm, song thi ông vui thú trong sự tao nhã, không hề lụy vì tình yêu trai gái tầm thường với họ. Tâm hồn của thi ông thanh thoát với thơ, với rượu, với câu ca, giọng hát, tiếng đàn.

Quý Hợi lạp nhị thập nhị dạ đề thị Ðông Chi Tử Lan nhị thi hữu
Án Sát Quảng Bình

Tử Lan thị hòa Ðông Chi thị
Lưỡng cá danh hương hồ bất mị
Xuân tâm sấu cốt cọng hàn mai
Khổ huống ngâm hồn tuỳ Mộng Vị
Bích đào lục liễu diệc phân sầu
Vũ điệp du phong tần hiến mị
Na như Thúc Dã nhất thi thiên
Ðã phá ngân sàng thâm dạ quỷ

Ðêm 22 tháng chạp năm Quý Hợi (1923) làm thơ tặng hai ông bạn Ðông Chi và Tử Lan

Tử Lan là một với Ðông Chi
Trằn trọc hai ông phải chuyện gì ?
Muốn ngắm mai vàng lo ốm xác
Vì mơ Mộng Vị khổ hồn thi
Ðào tơ liễu biếc sầu đôi ngã
Bướm lượn ong vần tỏ dạ si
Sao được một vần như Thúc Giạ
Canh khuya phá giấc quỷ ra uy
Nguyễn Hữu Vinh dịch

Cuộc đời của thi ông, sống ở Huế chỉ trừ lúc sinh ra, sống thuở thiếu thời và lúc về hưu, còn ngoài ra đều vì việc quan nên phải rày đây mai đó, nhậm chức quan lúc thì ra phía bắc miền trung, lúc thì vào phía nam miền trung nước Việt. Ngao du sơn thuỷ, thơ ngâm, rượu nhắm, hò hát, bạn bè là những yếu tố cần thiết trong cuộc đời của thi ông. Qua những vần thơ chữ Hán, chúng ta có dịp cùng với thi ông, ca nhi và bạn hữu thưởng ngoạn những danh thắng vào những dịp khi trời vào thu như Chùa Trà Am, chùa Linh Mụ, núi Ngự sông Hương ở Huế; sông Ngưu Chữ ở Hương Khê, Hà Tĩnh; Đầm Cầu Hai, núi Bạch Mã ở Thừa Thiên; Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, sông Thạch Hãn, núi Mai Lĩnh ở Quảng Trị; núi Linh Phong ở Bình Định, Động Phong Nha, Luỹ Thầy, sông Gianh, sông Nhật Lệ, núi Đâu Mâu ở Quảng Bình; dãy Hoành Sơn ở Hà Tĩnh, Văn Miếu ở Hà Nội v.v...

Tân Tỵ trung thu phiếm nguyệt hữu hoài

Nhất diệp khinh chu thủy thượng phù
Sổ thanh hàn nhạn bất thăng thu
Nhĩ Tỳ bà khúc thương ly hợp
Xuy Phụng hoàng tiêu cảm khứ lưu
Phẩm mính đề thi chiêu khách họa
Hữu ngư vô tửu hướng khuê mưu
Bồng song liêm quyển hàm thanh mộng
Thố ảnh tương khuy bạn chẩm đầu

Cảm tác trong đêm trung thu chèo thuyền thưởng trăng năm Tân Tỵ (1941)

Một chiếc thuyền con thả lững lờ
Thu sầu nhạn lẻ gọi bâng quơ
Tiếng Tỳ tan hợp lòng thương cảm
Sáo Phượng chờ đi luống ngẩn ngơ
Trà nhắm thơ đề mời khách hoạ
Cá còn rượu thiếu gọi nhà đưa
Mạn thuyền say mộng bên rèm cuốn
Ngước mắt trăng chờ bên gối mơ
Nguyễn Hữu Vinh dịch

Chúng ta hãy về tìm lại cây cầu mang tên Lược Ước (Lược Ước Kiều) , bắt ngang con suối róc rách trước cửa chùa Trà Am, nay vẫn âm thầm chờ đợi khách tri âm.

Hựu tiền đề. Giáp Tuất cửu nguyệt giai thi hữu sơn du hựu phóng Tra Am. Hoạ Thương Thư Thúc Thuyên hiền đệ xướng vận

Sơn ngoại thanh sơn hựu kỷ trùng
Hoành khâm nhất vọng hướng thanh không
Ðăng cao vị đáo tằng loan thượng
Ðiếu cổ hoàn lai Tiêu tự trung
Tháp ngoạ Tỳ khưu nhân dĩ diểu
Kiều danh Lược Ước lộ do thông
Hoa hương thụ ảnh tầm u xứ
Thuỳ thức Tra Am Phật tử công

Tiếp vần bài thơ trước. Họa lại bài của em là Thượng Thư Thúc Thuyên, tháng chín năm Giáp Tuất (1934) cùng đi chơi núi đến thăm chùa Tra Am

Lớp lớp xanh xanh núi chập chùng
Che ngang tà áo ngước trời trong
Trèo cao núi nọ chưa leo tới
Hoài cổ chùa đây hãy đến cùng
Có tháp Tỳ kheo người đã vắng
Ðây cầu Lược Ước lối đà thông
Hương hoa cây cảnh nơi u tịch
Phật tử dày công ai biết không
Nguyễn Hữu Vinh dịch

Cũng như Nguyễn Du đã chuyển nhập thơ Ðường vào Kiều một cách tài tình, thì thi ông cũng đã mượn tình và cảnh trong thơ Đường một cách không kém phần khéo léo, để dệt nên những vần thơ trác tuyệt, không những không vì thế mà làm cho thơ chữ Hán của thi ông cứng cỏi, câu nệ, nặng nề, trái lại thơ chữ Hán của thi ông lại thanh thoát, nhẹ nhàng, ý thơ lai láng, trữ tình, sâu đậm, cô đọng, và phần nhiều dễ gây được cảm thông sâu xa với người đọc. Thi ông chịu ảnh hưởng nhiều đối với các thi nhân Tống, Đường của Trung Quốc như Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Lý Thương Ẩn và Vương Duy.
Dưới đây là một trong những bài thơ mượn chữ của các thi sĩ đời Đường để diễn đạt sự nhớ nhung bạn cũ.

Xuân nhật hữu hoài Linh giang cựu hữu Án Sát Quảng Bình

Tế sổ lạc hoa sầu vị phá
Tĩnh thính đề điểu tín tương lai
Ngâm bôi hữu khách hoài vân thụ
Lữ dạ hà nhân khán đẩu đài
Kỷ khúc Vị Thành tân sắc liễu
Nhất chi Kế bắc cựu tình mai
Tư quân nhiễu mộng tầm quân xứ
Chu phiếm Linh giang thướng Hải đài

Ngày xuân nhớ bạn cũ ở sông Gianh

Ðếm tàn hoa rụng chạnh sầu
Lặng nghe chim gọi đợi cầu tri âm
Mây ngàn rượu ngóng thơ ngâm
Trông sao đêm trọ âm thầm nhớ ai
Vị thành khúc vẳng bên tai
Mơ người Kế Bắc cành mai gợi tình
Nhớ anh vào mộng tìm quanh
Sông Gianh thuyền dạo lên thành Hải trông
Nguyễn Hữu Vinh dịch

Chú thích :
- Chim gọi đợi cầu tri âm lấy từ ý Chim xanh (Thanh điểu), chỉ sứ giả, thư từ. Sách "Hán Võ" nói rằng Tây Vương Mẫu nhờ con chim xanh làm sứ giả đi đến trước để báo tin cho Hán Võ đế biết rằng Tây Vương Mẫu đến thăm. Sau này, dùng chim xanh để chỉ sứ giả đưa tin.
- Mây ngàn thơ Đỗ Phủ Xuân nhật hoài Lý Bạch, có hai câu " Vị Bắc xuân thiên thụ, Giang Đông nhật mộ vân " ; Trần trọng Kim dịch Ngày xuân nhớ Lý Bạch : " Cây xuân Vị Bắc xanh rờn, Giang Đông chiều tối mây ngàn thênh thênh ". (Nhìn phong cảnh nên thơ ở Vị Bắc mà nhớ người ở Giang Đông).
- Trông sao lấy từ ý bài Kim Lăng Ðộ của Trương Hỗ.

Ðề Kim Lăng độ
Trương Hỗ

Kim Lăng tân độ tiểu sơn lâu
Nhất túc hành nhân tự khả sầu
Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý
Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua Châu

Ðề thơ bên bến Kim Lăng

Kim Lăng quán nhỏ bến giang đầu
Ðêm trọ khách xa chớm mối sầu
Ngóng nước triều dâng trăng chếch bóng
Sao mờ lấm tấm ấy Qua Châu
Nguyễn Hữu Vinh dịch

- Vị Thành, Dương Quan hay Tam Điệp thường được thi ông lấy ý từ bài Vị Thành Khúc thơ Vương Duy để diễn tả tình cảnh chia ly bịn rịn, ngậm ngùi với bạn bè.

Vị Thành Khúc

Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân

Vương Duy

Khúc hát Vị Thành

Vị thành mưa sáng tươi màu đất
Lữ xá xanh màu sắc liễu xuân
Anh ơi hãy cạn ly này nhé
Ra khỏi Dương Quan ai cố nhân
Nguyễn Hữu Vinh dịch

Trong 197 bài thơ chữ Hán trong tập Lộc Minh Đình thi thảo, thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã để lại cho nền thơ văn của chúng ta nhiều bài thơ trác tuyệt, là những tài liệu quý giá để cho người đời sau còn có dịp nghiên cứu về xã hội, phong tục và tập quán thời đó, cũng như có dịp hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của thi ông.
Thơ chữ Hán của Ưng Bình có những đặc điểm sau đây:
1. Nói chung, thi ông xoay quanh chữ "Tình". Tình đối với núi sông non nước, tình đối với thiên nhiên, tình bạn thơ ca, tình bạn ở quan trường, tình bạn bè thâm giao, tình với cô đào của ca trù và ca Huế.
2. Tình của thi sĩ thường được thể hiện qua những "nỗi buồn", nhưng thi ông buồn một cách rất đặc biệt và đa dạng. Thi ông không buồn như nỗi buồn day dứt, than thở sinh không gặp thời như phần đông các thi gia đời Tống, Đường. Thi ông không buồn tê tái như Đỗ Phủ, không buồn man mác như Lý Bạch, không buồn yếm thế như Lý Thương Ẩn. Trái lại, người làm quan Án Sát mà lúc nào cũng say sưa với cái đẹp của vũ trụ, cái đẹp của thiên nhiên và buồn một cách nhẹ nhàng, thanh tươi. Thi ông buồn vì xa nhà, nhớ quê; buồn vì xa bạn, xa cô đào; buồn vì thiếu người để cùng ngao du sơn thuỷ, buồn vì mưa thu, buồn vì xa người ruột thịt v.v. Do đó thơ chữ Hán của thi ông có sự thu hút mãnh liệt đối với đa số người đọc vì hồn thơ thanh thoát, mộc mạc nhưng tế nhị và sâu sắc.
3. Thơ của thi ông thường hay ghi lại những vết tích lịch sử, địa lý và xã hội cho nên rất gần gũi và dễ gây nhịp cảm với con tim của người đọc cùng xứ sở. Chúng ta có thể cùng được thưởng thức phong cảnh tuyệt vời ở những nơi danh thắng mà trong đó còn có những nhân vật nổi tiếng có liên quan đến lịch sử, văn học và xã hội đương thời.

Qua những vần thơ chữ Hán, thi ông sẽ đưa người đọc về thế gới phong lưu của hàng quan lại, thi nhân mặc khách ngày xưa, người đọc sẽ cảm thấy buồn vui lẫn lộn, tình cảm sẽ dạt dào và có được những cảm giác nhớ nhung chất ngất, bên tai còn nghe văng vẳng đâu đây những tiếng cười vui với những nhịp trống, lời ca, tiếng hát, câu hò của khách thơ, của ca nữ trong những dịp vui ca Huế, ca Trù hay trong những lúc dạo chơi với núi non, trăng thanh, gió mát, hoa tươi, cỏ đẹp, núi biếc, sông mờ, thuyền dạo lênh đênh ở miền trung nước Việt trong những năm khoảng giữa thế kỷ 20. Với những vần thơ cô đọng nhưng dễ gây rung cảm cho con tim, người đọc cảm nhận được ý nghĩa của tình người qua thi ca chữ Hán của thi ông.

(*) Lộc Minh Đình: Ngôi đình tên là đình Lộc Minh (tiếng nai kêu), dùng để tiếp khách thơ, nằm trong khuôn viên nhà của thi ông ở Vỹ Dạ.


Created on 09/24/2006 11:13 PM by NHV
Updated on 10/25/2006 06:10 PM by NHV
 Printable Version

What's Related


Font chữ Nôm

Để đọc được tất cả các chữ Nôm trên trang web này, xin cài đặt hai bộ font HAN NOM A và HAN NOM B. Xin xem hướng dẫn tại trang web của Viện Việt Học.

Đề thi Trắc nghiệm môn Toán, Tú Tài II, 1973-1974


Stats

Web Pages:  360

This Site is powered by phpWebSite © phpWebSite is licensed under the GNU LGPL
Contact webmaster: hoaihuongime@yahoo.com