073 Bính Dần ngũ nguyệt dĩ Quảng Bình Án Sát sứ mông thăng hồi kinh Học Bộ Thị Lang lâm hành lưu giản
丙寅五月以廣平按察使蒙陞回京學部侍郎臨行留柬
橫鍪聳翠麗江清
四五星霜紀宦情
錦繡無文歸學部
簪袍有分到春京
臣心並對門如水
子職能供彩戲庭
杯酒陽關相惜別
亦教留去眼全青
Bính Dần ngũ nguyệt dĩ Quảng Bình Án Sát sứ mông thăng hồi kinh Học Bộ Thị Lang lâm hành lưu giản
Hoành Mâu (1) tủng thúy Lệ giang (2) thanh
Tứ ngũ tinh sương kỷ hoạn tình
Cẩm tú vô văn (3) qui Học bộ
Trâm bào hữu phận đáo xuân kinh
Thần tâm tịnh đối môn như thủy
Tử chức năng cung thải hý đình (4)
Bôi tửu Dương Quan (5) tương tích biệt
Diệc giao lưu khứ nhãn toàn thanh (6)
Tháng năm năm Bính Dần (1926), làm quan Án Sát tỉnh Quảng Bình thăng chức về kinh làm Thị Lang bộ Học, khi đi làm bài thơ lưu niệm
Núi Ðâu Mâu xanh biếc, nước sông Nhật Lệ trong vắt
Làm quan mấy năm ở đây vương vấn biết bao tình
Khăn gói tay không về bộ Học
Mặc áo mũ đem thân nợ về đất thần kinh
Lòng của kẻ tôi thần vẫn trong như nước
Phận làm con hiếu đễ hay múa vui giữa nhà
Hôm hay uống chén rượu Dương Quan từ biệt lòng bịn rịn
Làm cho kẻ ở người đi đều nhìn nhau với con mắt xanh
Tháng năm năm Bính Dần (1926), làm quan Án Sát tỉnh Quảng Bình thăng chức về kinh làm Thị Lang bộ Học, khi đi làm bài thơ lưu niệm
Lệ giang trong vắt núi Mâu xanh
Ngày tháng đời quan chạnh nỗi tình
Khăn gói tay không về bộ Học
Áo xiêm thân nợ đến thần kinh
Tôi trung lòng vẫn trong như nước
Ðạo hiếu con hay múa giữa đình
Từ biệt nâng ly lòng bịn rịn
Người đi kẻ ở dạ không đành
Nguyễn Hữu Vinh dịch, Taiwan, 1995
Chú Thích
_____________
1) Hoành Mâu:
Núi Ðâu Mâu trong dãy Hoành sơn.
2) Lệ giang: Sông Nhật Lệ.
3) Vô văn:
Không có tiền bạc.
4) Thải hý đình:
Chỉ con cái vui chơi với cha mẹ trong nhà. Ưng Bình về Huế nhậm chức và sống với cha mẹ, do tích Lão Lai Tử. Ban y 斑衣 [ÐP] tr. 1201, [129].
Chuyện Lão Lai Tử 老萊子 trong Nhị thập tứ hiếu 二十四孝(24 chuyện hiếu). Lão Lai Tử người nước Sở 楚 thời Xuân Thu 春秋 đã gần 70 tuổi, nhưng vẫn mặc áo màu, giả làm con nít đùa giỡn để làm cha mẹ vui [ÐT7] trang 265 .
Thơ Tống Hàn Thập Tứ Giang đông cận tỉnh 送韓十四江東覲省
Tiễn đưa ông Hàn Thập Tứ qua Giang đông thăm người thân của Ðỗ Phủ [ÐT7] tr. 265 có câu: Binh qua bất kiến lão Lai y, thán tức nhân gian vạn sự phi 兵戈不見老萊衣,嘆息人間萬事非
Thời binh lửa không thấy có người như Lão Lai Tử, buồn thay vạn sự trong đời đều thay đổi.
(Nguyễn Hữu Vinh dịch).
5) Dương Quan:
Bịn rịn chia tay. Lấy ý từ bài thơ "Vị thành khúc" 渭城曲
Khúc hát ở thành Vị của Vương Duy:
Vị thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương quan vô cố nhân
|
渭城朝雨浥輕塵
客舍青青柳色新
勸君更盡一杯酒
西出陽關無故人
|
Vị thành mưa sáng tươi màu đất
Lữ xá xanh màu sắc liễu xuân
Anh ơi cạn hết ly này nhé
Ra khỏi Dương Quan ai cố nhân?
(Nguyễn Hữu Vinh dịch)
6) Thanh nhãn 青眼: Chỉ bạn thân [TC] tr. 753, coi trọng, mắt xanh. Nguyễn Tịch, một trong "Trúc lâm thất hiền" 竹林七賢 bảy người hiền ở Trúc Lâm đời Tấn, khi gặp bạn tri kỷ thì tiếp bằng mắt xanh, khi gặp khách tục, khinh bỉ thì tiếp bằng mắt trắng [ÐT7] trang 426.
Created on 08/22/2006 10:50 PM by NHV
Updated on 09/11/2006 10:45 PM by NHV
|
|