Trương Ngáo, cảnh 13

Bẽ bàng t́nh cũ nghĩa xưa

 

Như Ư:

Như tôi: Kể từ thuở hiệp duyên, Nay mừng đà đẹp phận. Phước Trời khiến phận đà đạt vận, Của Phật cho giàu rất đổi giàu. Nhà ba ṭa đầy dẫy tiền Châu, Lẫm mười cái chứa đầy lúa Hớn[1]. Thời nghĩ lại, từ tôi chịu: Tất bạt những ngày bán quán, mà nay: Ấm no bỏ thuở cơ hàn[2]. Thời, thuở trước tôi có vái cùng lệnh Bà Chúa Tiên rằng: Hiệp đôi dầu gặp phượng giao loan, Thời phải dâng hoa múa vát[3] cho Bà. Dám đâu quên lời vái, Chừ phải tính múa bông. Âu là: Vào tỏ nỗi (20a) hung trung, Đặng người tường áo lư a!

 

Chơn Tâm:

     Kể từ thuở kết duyên Hà thị, Vương mang oan báo Liễu nương. Nước Ma Ha rửa sạch sự t́nh, Gươm trí huệ dứt rồi nghiệp chướng[4]. Như tôi: Dốc đắp nền nhân muôn trượng, Lăm trồng cây đức ngàn trùng[5]. Phước tuy chưa sánh kịp Thạch Sùng, [Tiền] cũng ví tày trang Vương Khải[6].

 

Như Ư:

     Dám thưa anh: Lời nguyền xưa nhớ lại, Chuyện vái dám bày qua. Thuở lỡ duyên tôi có vái lịnh Bà, Đặng đẹp phận dâng bông một tiệc. Nay vợ chồng đă đẹp, Trong gia đạo lại an. Trước phải tỏ với chàng, Sau ngỏ toan rước bóng[7].

 

Chơn Tâm:

     Nàng muốn dâng bông tín cúng, Đây cũng ḷng rước lộc cầu an. Cử thố mặc t́nh nàng, Liệu dụng dầu mặc bậu[8].

 

Như Ư:

     Tôi nghe rằng nơi Giang Tú, Có lập gánh múa bông. Bớ Giúp[9]! Mầy xuống chợ rước bóng. Nghe tao dặn: Xuống tới nơi kêu các xác đồng, rằng: Ngày mười bảy lên đây khởi (20b) cổ. Vậy thời mầy lên nói cùng người cho rơ: Múa thời có long có hổ, Múa cho có Phật có Tiên. Trước là thiếp cầu duyên, Sau nữa tôi trả lễ[10].

 

Bóng Sỏi:

     Như tôi: Sức biết múa mâm múa dĩa, Tài hay giọng lư giọng chàng. Quê ngụ chợ Tú Giang, Tôi danh xưng Bóng Sỏi. Nói thời nói chứ tôi lập gánh bóng ra đây là: Gái mười lăm lịch sự, Bóng sắc rất xuê xoang[11]. Có cậu Hộ kéo đàn, Thêm cô Bành múa vác[12]. Như cậu Hộ cùng cô Bành, nay: Bỡi thế túng mới ra thân thất bạc, Lâm việc thua mới theo xóm bóng chàng[13]. Thấy làm vậy khá thương, Mới đem theo đi múa.

 

Biện Giúp:

     Tôi nay Biện Giúp, Ở với họ Hà. Trên cô có [múa] bông, cho tôi đi rước bóng.

 

[Bóng Sỏi:]

Có phải cô Hà Như Ư là vợ cậu Hứa Chơn Tâm mà ở quận Lư Châu, có phải làm vầy a chú?

 

[Lại nói:]

Kíp dọn đồ chóng chóng, Đều nhẹ gót mau mau[14]. Trước lên chơi cho (21a) biết sức giàu, Sau tới đó đặng cho biết chủ[15]!

 

Như Ư:

     Chào các cô dưới chợ, Lên đây múa cho ta. Xưa vốn tôi có vái lịnh Bà, Nay thiếp phải dâng bông trả lễ. Việc làm cho tử tế, Ở đây có các làng. Hăy múa thời cho đủ a: Trước thời có Trạng, Sau lại có Nàng. Đặng rồi hỡi múa mâm múa bát. Hay thời thưởng bạc, dở ắt có đ̣n[16]. Đừng khinh ở trên non, Việc làm cho đủ chuyện[17].

 

Bóng Sỏi:

     Tôi ví dầu thưa trước, Cô cũng biết cũng hay. Trà quả kíp đem đây, đặng cho tôi vào tiệc.

 

Chơn Tâm:

     Ta buông lời hỏi đó, Thế [đó] có biết đây? Ba Bành múa bát nên hay, Mà cậu Hộ kéo đàn rất giỏi. Ta khá khen cho hai vợ chồng đó!

 

Ba Bành:

     Bỗng nghe qua tiếng nói, Mới biết thửa dạng h́nh[18]. Quả Trương thị bạc t́nh[19], Chơn ngô phu phối nguyện.

 

Lục Tồn, Ba Bành:

     Đê đầu cam chịu đê đầu cam chịu, Ngưỡng diện tàm tu ngưỡng diện tàm tu[20]! (21b) Vạn sự tổng giai hưu, Nhứt triêu cai thọ tử[21].

 

Chơn Tâm:

     Vốn đây không sanh sự, Đó sá kíp phản hồi. Ta bảo cho: Thời, Kiếm thiêng bao nỡ giết ruồi, Đàn báu dễ hoài bắn sẻ[22]? Gia đinh đuổi nó ra! Lời Phật dạy gẫm nên cặn kẽ, Việc thần truyền soi thấy rơ ràng. Cho hay nghiệp báo vinh xương, Mới biết thành năng cảm hoặc[23]. Tôi nguyền: Ngàn thuở thái b́nh thiên hạ, Lại: Muôn năm quốc thới dân khang. Nay đà hết cơn bỉ cực, Lại thêm tới vận thới lai. Chúc Nguyễn triều thọ tỉ Nam san, Kính tuổi chúa hạ hồi phân giải[24].

 

 

(Chung ) [25]

 



[1] Nhà ba ṭa đầy dẫy tiền Châu 𠀧 座 苔 汜 錢 周, Lẫm mười cái chứa đầy lúa Hớn 廩 辻 丐 渚 苔 穭 漢: Nhà rất giàu, tiền chất đầy nhà, lúa chứa đầy lẫm. Lẫm : nhà chứa lúa. Tiền Châu, lúa Hớn 錢 周 穭 漢: Tiền và lúa, chỉ chung tài sản. Các chữ Châu Hớn chỉ dùng quen theo điển tích xưa đă thành nếp, không c̣n có giá trị ngữ nghĩa. Chữ Châu bản Nôm khắc sai thành !

[2] Tất bạt những ngày bán quán 必 泊 仍  半 館, Ấm no bỏ thuở cơ hàn 瘖 奴 補 課 機 寒: Những ngày bán quán cực khổ xưa, bây giờ th́ khá lắm rồi. Tất bạt 必 泊, xem chú phía dưới. Chữ ấm bản Nôm viết bằng ốm , không hay và có vẻ tùy tiện.

[3] Hiệp đôi dầu gặp phượng giao loan 合 堆 油 﨤 鳳 交 鵉, Thời phải dâng hoa múa vát 時 沛 𤼸 𢱖 : Nếu được duyên chồng vợ, thời phải trả lễ dâng cúng cho Bà. Lời vái van để cầu xin, khi được rồi th́ phải cúng trả lễ.

[4] Nước Ma Ha rửa sạch sự t́nh 渃 麻 阿 𣳮  事 情, Gươm trí huệ dứt rồi nghiệp chướng: 釼 智 惠 弋 耒 業 彰: V́ hiểu đạo, có định huệ cho nên quên hết rồi những oán hờn ngày xưa, những chuyện có thể tạo nên nghiệp xấu. Bản Nôm sai chữ nghiệp chướng 業 彰  thành chưởng chướng 掌 彰.

[5] Dốc đắp nền nhân muôn trượng 篤 塔 𡋂 仁  仗, Lăm trồng cây đức ngàn trùng 啉 槞 核 德 𠦳 :  Đời ḿnh căn bản là thực hành thiệt nhiều việc nhân đức. Cách nói khác, sống là tu nhân. Để ư chữ nền 𡋂 trong bản Nôm khắc sai phần chữ niên   thành chữ lao , như trường hợp chữ nên đă chú ở trên.

[6] Phước tuy chưa sánh kịp Thạch Sùng 𧈧 𤯭 及 石 崇, [Tiền] cũng ví tày trang Vương Khải [錢] 拱  齊 莊 王 鎧: Phước phần tiền của sánh ngang với hai người giàu nổi tiếng ngày xưa là Thạch Sùng Vương Khải. Phn đối chỗ nầy quá kém. Nói chung người viết tuồng Trương Ngáo để lại nhiều khiếm khuyết trong các câu cần có tiểu đối.

[7] Đối bóng < > chàng rất hay chỗ nầy. Mượn chữ chàng (anh) để dùng cho chàng (bóng).

[8] Cử thố mặc t́nh nàng  錯 𩈘 情 娘, Liệu dụng dầu mặc bậu 料 用 油 𩈘 : Cắt đặt, sắp đặt chuyện nầy kia trong nhà mặc t́nh nàng định liệu. Nàng là nội tướng mà! Cử thố  錯: điều khiển các việc trong nhà, công việc của nội tướng! HTC cho biết cử thố tương đương với cử đặt, sắp đặt công việc.

[9] Bản Nôm viết Súc . Súc là gia đinh của Ba Bành Lục Tồn, không thể là gia đinh của Chơn Tâm Như Ư. Có lẽ tác giả lộn với Giúp, v́ sau đây có nhân vật Biện Giúp 󰍡 đi mời đoàn múa bông và xưng là ở với họ Hà.  Chuyện lộn nầy cũng thường thôi, nhà văn thường đoảng.

[10] Trước là thiếp cầu duyên 𢌬 妾 求 縁, Sau nữa tôi trả lễ 娄 姅 碎 呂 禮: Cho múa bóng để trả lễ lời hứa trước đây với Bà và để cầu được thiện duyên (chuyện lành) cho gia đ́nh. Sự tin tưởng thời đó, nay hầu như không c̣n.

[11] Gái mười lăm lịch sự  𡛔 𨒒 𠄼  事, Bóng sắc rất xuê xoang 俸 色 叱 吹  胱: Các cô gái theo làm bóng, làm người múa bông, múa vát… c̣n trẻ mà đẹp. Xuê xoang 吹 胱: đẹp đẽ, lịch sự, tươi tốt. HTC viết xuê xang có lẽ ông theo giọng thường nghe.

[12] Có cậu Hộ kéo đàn 󰈏, Thêm cô Bành múa vác 添 姑 彭 𢱖 : Cặp vợ chồng nầy xuống dốc phải kiếm cơm cách khó nhọc trong gánh bóng rỗi, người đàn người múa. Lương thiện,  khá hơn nếu phải đi làm bối theo sự gợi ư của tên Súc. Múa vác 𢱖: Múa giáo, múa binh khí. Trong cuộc múa bóng rỗi thường có một người nữ đóng vai nữ tướng múa gươm, múa giáo.

[13] Bỡi thế túng mới ra thân tất bạt 罢 世 縱 買  身 失 泊, Lâm việc thua mới theo nhóm bóng chàng 臨 役 收 買 蹺 笘 俸 払.:  Gặp hoàn cảnh túng thiếu v́ lỡ cờ bạc thua, mới đi làm nghề múa bóng. Muốn nói hai người nầy trước đây cũng rân rác lắm. HTC, Tất bạt 必拔: cô khổ một ḿnh, không ai ngó đến. Gần đây từ nầy bị biến âm biến nghĩa thành tất bật, có nghĩa là cực khổ phải làm lụng không hở tay để kiếm sống. Để ư bản Nôm ở đây viết thất bạc 失泊, chứng tỏ việc nôm cũng rất tùy tiện, người xưa gọi là nôm thấp.

[14] Kíp dọn đồ chóng chóng 急  圖 𢶢 𢶢, Đều nhẹ gót mau mau 調 𨌀 𨃴 毛 毛: Tuồng hát bội vốn cơ bản diễn bằng lời, cho nên khi cần cho khán giả hiểu rằng gánh bóng chàng sửa soạn đi xa th́ phải có một nhân vật nói về chuyện nầy: dọn đồ, nhẹ gót. Cũng trong tuồng, diễn tả sự gấp gáp, hối thúc, thầy tuồng cho lập lại một số chữ: chóng chóng, mau mau. Bản Nôm viết chữ nhẹ 𨌀 lầm thành chữ nhảy .

[15] Trước lên chơi cho biết sức giàu 𨑗 制 朱 别 飭 𢀭, Sau tới đó đặng cho biết chủ: . Nghe tiếng giàu muốn đến coi cơ ngơi, và nh́n người cho biết chủ là ai. Đây cũng là lời mở ra cho sự gặp gỡ bẽ bàng của cặp Ba Bành Lục Tồn với Chơn Tâm sau nầy. Chữ chủ bản Nôm viết bằng chú , không hay! Ông P. H. S. phiên là chỗ tạm tạm theo văn cảnh v́ chữ chỗ 𡊲 đáng ra phải dùng bộ thổ . Tôi chọn chủ v́ ở ngay phía sát trên, nhân vật có nhắc đến Hà Như Ư và Lư Chơn Tâm. Toàn bộ bản Nôm Phật Trấn cách viết Nôm không được tuân thủ chặt chẽ, nhứt là các bộ thủ, cho nên người phiên âm thường xuyên gặp rắc rối!

[16] Hay thời thưởng bạc 咍 辰 賞 泊, Dở ắt có đ̣n 乙 固 杶. Thưởng bạc, cách nói xưa, chỉ nghĩa thưởng tiền. Dở th́ phàn nàn hay trả tiền ít đi, tại sao lại đánh người? Tôi không hiểu sinh hoạt lạ lùng nầy của người xưa. 

[17] Đừng khinh ở trên non 仃 輕 於 𨑗 , Việc làm cho đủ chuyện 役朱𡀯: Đừng khinh khi người ở chốn quê mùa hủ lậu mà bỏ qua thứ nầy thứ khác khi tŕnh diễn. Các môn múa phải cho đủ nhưn đủ nhị, không được nhận lớp. Chuyện đám cúng nhận lớp xưa nay là thường. Kinh Hồi Dương Nhơn Quả viết chuyện bên Tàu c̣n nhắc tới các vị sư săi cúng đàn đọc kinh thiếu th́ chuyện múa cúng Bà, cúng đ́nh sao khỏi thiếu nầy thiếu kia!

[18] Bỗng nghe qua tiếng nói 𠵌 戈 㗂 呐, Mới biết thửa dạng h́nh 買 别 使  刑: Người thân cách biệt lâu, thay đổi nhiều, chỉ nhận ra nhau qua giọng nói.

[19] Quả Trương thị bạc t́nh 果 張 氏 萡 情, Chơn ngô phu phối nguyện 眞 吾 夫 配 愿: Quả thiệt người là họ Trương, chồng cũ bạc t́nh của tôi. Bạc t́nh sao? Mới biết trách người th́ dễ, trách ḿnh mới khó. Ba Bành bạc t́nh trước mà chỉ biết trách người.

[20] Đê đầu cam chịu 低 頭 甘 𠹾, Ngưỡng diện tàm tu 仰 面 慚 𦍟: Thôi th́ đành gục mặt xuống, mắc cở quá không dám ngó lên. Lắm chuyện! Làm điều xấu với người nào dầu không gặp lại nhau cũng đă cảm thấy xấu hổ rồi lọ là phải gặp! Vậy mà c̣n hơn biết bao kẻ ngày nay, thần kinh xấu hổ không c̣n nữa! (2006) Bản Nôm chữ cam viết sai thành chữ nhĩ , chữ tàm thành chữ tiệm 漸.

[21] Vạn sự tổng giai hưu , Nhứt triêu cai thọ tử 壹 朝 該 受 死: Mọi sự đều tiêu tan hết, hôm nay đành chịu chết. Câu than thở cho biết nhân vật đang lâm vào t́nh huống khó khăn. Không có nghĩa là chuyện giết chóc sẽ xảy ra chỗ nầy, lúc nầy.

[22] Kiếm thiêng bao nỡ giết ruồi 釼 天 包 𦬑 𧋆, Đàn báu dễ hoài bắn sẻ 彈 寶 易 𢙇 𢏑 : Chẳng muốn dùng kiếm báu giết loài vật mọn, chẳng thèm phí ná quí bắn con chim nhỏ. Không muốn bỏ cái đức lớn của ḿnh để trả mối thù cỏn con. Không muốn nhắc đến chuyện quấy của bà ngày cũ. Chữ thiêng 𤍌 tác giả viết bằng giọng Nam thiên .Bản  Nôm viết chữ đàn, bộ cung , là một nhạc cụ đồng thời là một thứ ná nơ, không phải đạn , bộ thạch , gợi ư cho ta nghĩ rằng Từ Hải xưa gươm đàn nửa gánh tức là mang gươm, mang ná nơ, không phải mang đàn. Từ Hải là một anh hùng vơ biền râu hùm, không phải là con nhà vơ mang máu tài tử như nhiều người tán rộng. Xưa nay người ta lư luận dựa trên khái niệm kiếm <> đạn, thật ra kiếm chỉ toàn thể, do đó không thể đối chỉnh với đạn là một thành phần. Phải kiếm <> đàn mới chỉnh. Nhớ xưa cụ Nghè Nguyễn Sỹ Giác có câu thơ cũng dùng hai chữ gươm đàn (Gươm đàn nửa gánh muốn sang sông/ Hỏi bến thuyền không lái cũng không/ Xe muối nặng nề thương vó kư/ Đường mây rộng răi tiếc chim hồng…. Cảm hoài). Tiếc rằng ngày xưa đi học không biết để mà hỏi cụ cho rơ hơn về nghĩa của từ nầy.

[23] Cho hay nghiệp báo vinh xương 朱 咍 業 報 荣 昌,Thành năng cảm hoặc 誠 能 感 或: Mới biết nghiệp báo có sướng [có khổ], ḷng thành thật có thể cảm được sự nghi ngờ (từ người khác.)

[24] Ngàn thuở thái b́nh thiên hạ 𠦳 課 太 平 天 下…. Kính tuổi chúa hạ hồi phân giải 敬 歲 主 下 囘 分 解: Mong thiên hạ luôn luôn thái b́nh… Kính chúc chúa sống lâu. Muốn coi nữa th́ xin coi lần tới. Giống như mấy câu mở đầu, mấy câu cuối chào hạ màn như vầy là công thức phải có, luôn luôn hiện diện khi một vở tuồng kết thúc. Không thể dựa trên chữ tuổi chúa để nói tuồng nầy tuồng nọ là xuất hiện vào thời các Chúa Nguyễn. Căn cứ trên cách hành văn rất gọn gàng, trong toàn bộ vở tuồng, các điều nhân vật phát biểu hầu hết rất mới, tâm lư nhân vật rất đạt, xét trên sự cấu tạo chữ Nôm của bản khắc… tôi cho rằng thời gian xuất hiện sớm nhất của vở tuồng Trương Ngáo nầy là những thập niên đầu của thế kỷ 19, không xa lắm năm nó được khắc in, chừng độ chục năm trước khi người Pháp tấn công Việt Nam.

[25] Trong lần in nầy có một số ít, độ 10, chữ Nôm chưa có mă, sẽ sửa lại khi thuận tiện.