Trương Ngáo, cảnh 12

Vợ chồng Lục Tồn Ba Bành sa cơ đi múa bóng rỗi sanh nhai

 

Lục Tồn:

     Như ta: Thảnh thơi trong Chợ-Lớn[1], Ngang dọc giữa trường buôn. Mất quần áo mới khôn, Đồ c̣n tôi hầm túng[2]. Tôi nghĩ lại con Bành mà giận, Tưởng nỗi vợ thêm hờn. Từ tôi mà bỏ con vợ lớn, tôi lấy cái con Ba Bành cho đến nhẫn nay: Nó đánh bài quần áo hết trơn, Tôi thua [tiền] bạc, cửa nhà sạch gói[3]. Như tôi: Thuở trước phố lợp ngói, Tới bây chừ: Lều một căn chẳng đặng kín tranh. Cũng v́ bỡi con Bành, Mới gây nên sự khổ là mần ri!

 

Ba Bành:

     Bớ chú Tồn! Tôi hỏi: Chớ ai mà buộc cổ biểu lấy con nầy? Trỏ l. đây trỏ l. đây[4], Tôi không thèm sợ tôi không thèm sợ! Dại thời ở lổ, Chớ đổ cho ai[5]. Hễ là chồng đánh bạc, thời vợ lại đánh bài, Mầy hốt me thời tao phá hỏa[6]. Ông dầu ăn chả thời bà lại ăn nem. Nói thiệt, gặp (18b) ṣng me mà đó nhịn thèm, c̣n ta thấy bài phượng thời đây mới không đánh[7]. Hễ là mầy đánh, thời tao cũng đánh[8] c̣n ai nói làm sao kia chớ!

 

Lục Tồn:

     Con nầy lớn tiếng, Nó chẳng kể ai. Tao quyết lại bạt tai bạt tai, Kẻo c̣n già miệng già miệng[9].

 

Ba Bành:

     Tao nói thiệt: Nên hư thà một chuyến, Để bỏ cũng một lần nầy[10]. Tại mầy đă muốn gây muốn gây, Chớ trách tao làm dữ làm dữ! Bớ làng xóm!

 

Thằng Súc:

     Hoang mang lai tức ngữ, Cẩn cấp đáo gián ngôn. Mợ chớ học làm khôn, Khuyên cậu tua bớt giận. Thôi! Thôi! Buông cậu ra[11] mà! Thưa cậu, sách có chữ rằng: Nhẫn! Nhẫn! Trái chúa oan gia tùng thử tận. Nhiêu! Nhiêu! Thiên tai vạn họa nhứt tề tiêu. Xin cậu mợ hỡi ngồi, Đặng cho tôi phân chuyện. Dám thưa cậu mợ: Nghèo thời ta tính biến, Túng thời phải dụng quyền[12]. Như bây chừ muốn có tiền, thời phải đem nhau đi bối[13] thời xong thôi mà! Mợ thời (19a) bơi mũi, Lái để mặc tôi. Khoang giữa cậu[14] ngồi, Cầm cây mà thủ. Như ghe nào mê ngủ, Ta dọn lấy đồ. May gặp đặng trúng to, C̣n chi mà sức mánh[15] ?[như mà][16]

 

Lục Tồn:

     Hảo a! Chi thua mưu Tôn Tẩn, Thiệt hơn khách Thường Quân[17]. Thằng Súc nó tính mần rứa, ưng hay là không thời nói?

 

Ba Bành:

     Nghe qua chưa giỏi, Nghĩ lại không hay[18]. Hễ là: Ăn cắp ắt quen tay, c̣n: Ngủ ngày quen con mắt[19]. Bây chừ chưa ai bắt, Sau nữa trốn đặng nào? Thời sách có nói rằng: Thiên vơng nan đào, c̣n có câu: Sơ nhi bất lậu. Chừ tôi tính mần ri: Nghe rằng trên bóng Bưởi[20], Có lập gánh múa bông. Ta tới đó ra công, Đặng mà nhờ lỗ miệng. Chàng thời thổi quyển, Tôi thời thai mời. Trước là đi múa mà chơi, Sau nữa kiếm tiền đỡ ngặt thời xong thôi mà!

 

Lục Tồn:

     Súc! Mầy tua khá giữ trong gia thất, c̣n mợ mầy với tao: Thời Vợ chồng (19b) ta chỉ dặm Tú Giang. Mựa nài vạn hải thiên san, Chớ nại tuyết sương mộc vơ[21].

 

Hát nam:

Chớ ngại tuyết sương mộc vơ,

Nên ở trời, hư tại người vay?

Sang giàu nào khác mây bay,

Mới tan gió bạc, phút kề mây xanh.

 

Ba Bành, hát nam:

Xiết bao kể lể tự t́nh,

Ham trong bỏ đục tại ḿnh lá lay[22].

Đă vầy phải tính theo vầy,

Múa mâm múa vát nào ai dám b́.

 

CẢNH 13

 



[1] Chợ-Lớn 𢄂𡘯. Bản Nôm không đánh dấu cho biết đây là danh từ riêng. Có thể là danh từ chung chỉ cái chợ nhưng mà nó lớn. Tôi nghĩ rằng đây là chữ Chợ-Lớn, một địa danh Việt Nam độc nhứt được ghi vào truyện nầy.

[2] Mất quần áo mới khôn 𠅍 裙 袄 買 坤, Đồ c̣n tôi hầm túng 圖 群 碎 歆 中: Tạm phiên âm hai chữ chót là hầm túng. Đây có lẽ tác giả lại dùng tiếng Tiều pha lẫn tiếng Việt. Hầm túng: không túng. Ông P. H. S. cũng thấy khó đọc chỗ nầy nên đọc là: Hết áo mới biết khôn, c̣n quần tôi chẳng rúng. (Rúng: sợ.). Chữ trung tiếng Tiều gần với túng hơn là rúng.

[3] Nó đánh bài quần áo hết trơn 奴 打 排 裙 袄 歇 莊, Tôi thua bạc cửa nhà sạch gói 碎 收 泊  茹  襘: Đồng vợ đồng chồng cờ bạc nên đă tát cạn bể đông tiền bạc tích tụ bấy nhiêu lâu. Lời than nghe thê thảm: hết trơn, sạch gói. Sao mà để cho quá mạng vầy nè? Đáng lẽ phải ngừng lại trước khi hết chớ! Chữ trơn bản Nôm viết giọng Miền Nam thành trơng

[4] Ghê quá chữ dùng rất ấn tượng của Ba Bành. Cũng ghê quá từ ngữ cụ thể của người xưa trong tuồng. Điều nầy cho thấy tuồng phục vụ nhiều cho giới b́nh dân. Truyện thơ, dầu là thơ b́nh dân, các chữ thế nầy cũng không thể có mặt.

[5] Dại thời ở lổ  辰 唹 魯, Chớ đổ cho ai  渚 杜 朱 埃: Ngu thời nghèo mạt, ở truồng, không có cái khố rách che thân, ḿnh làm ḿnh chịu đổ thừa ai bây giờ. Ba Bành lớn họng để phủi tay phần trách nhiệm của ḿnh trong việc đốt gia tài của Lục Tồn.  Ở lổ 唹 魯 cũng là từ tục.

[6] Chồng đánh bạc thời vợ đánh bài  打 泊 時 𡢼 打 牌, Mầy hốt me thời tao phá hỏa  㧾 楣 辰 蚤 破 火: Đồng vợ đồng chồng cờ bạc [Bây giờ không được đổ thừa]. Phá hỏa 破 火: Người lo chuyện chung tiền, vùa tiền trong cuộc chơi cờ bạc. Một kiểu dealer trong ṣng bạc ngày nay.

[7] Gặp ṣng me mà đó nhịn thèm 及 捹 楣 麻 妬 𠴍 , Thấy bài phượng th́ đây mới không đánh 体 牌 鳳 辰 低 買 空 打. Câu tối nghĩa. Ta phải hiểu: Nếu anh gặp ṣng me mà không đánh th́ tui gặp bài phượng tui mới dang ra. Chữ thế tạm bằng chữ ṣng v́ không biết là chữ ǵ cho hợp chỗ nầy, c̣n chờ những cao kiến.

[8] Hễ mầy đánh thời tao cũng đánh 係 眉 打 時 蚤 拱 打, C̣n ai nói làm sao kia chớ 群 埃 呐  牢 箕 渚!: Chồng hư thời vợ bắt thang hư theo, không ai nói được ai. Vợ chồng cùng nhau cờ bạc đến lúc hết tiền lên tiếng mầy tao. Đời! Để ư cái giọng chát chúa của bà chằn Ba Bành ở đây so sánh với giọng ỏng ẹo của nàng Ba Bành trước khi vô làm vợ cậu Hộ Tồn.

[9] Tao quyết lại bạt tai bạt tai 蚤 决 吏 泊 哉 泊 哉, Kẻo c̣n già miệng già miệng  群 𦓅 𠲶 𦓅 𠲶: Tao tán cho một bớp tai chứ không thôi mầy cứ già hàm lăo khẩu ai mà chịu nổi. Bạt tai 泊哉: lấy tay mà tán hơi phớt lên chỗ lỗ tai. HTC có bớp tai, cũng một nghĩa. Ngày nay người ta viết bạt tay, không đúng ư người xưa, cũng như trường hợp chữ thế chưn.

[10] Nên hư thà một chuyến 𢧚 虚 他 沒 專, Để bỏ cũng một lần 底 補 拱 沒 吝: Lần nầy quyết một trận hơn thua rồi ra sao th́ ra, có bỏ nhau cũng được.  Thà : Tiếng chỉ chấp nhận trong một quyết định ǵ đó có nhiều giải pháp mà ḿnh đă quyết tâm chọn một. Tiếng thà trong câu nói của Ba Bành chỉ sự dứt khoát, sẵn sàng đánh nhau. Rất hay, gợi h́nh ảnh, xứng hợp với vai tṛ. CD: Thà rằng cắt tóc đi tu, Hơn về Mộ Đức cc đi đời! 

[11] Buông cậu ra mà 奔舅廾麻: Chắc là cậu bị chị chàng nắm cứng chỗ nhược!

[12] Nghèo thời ta tính biến 𠨪 辰 些 併 変, Túng th́ phải dụng quyền 縱 辰 沛 用 權. Câu nầy giờ đây gọn hơn: Túng th́ phải tính. Đói th́ đầu gối phải ḅ. Hoặc bụi đời hơn của các đại bàng trước khi nằm hộp: Bần cùng sanh đạo tặc, Không đi ăn cắp vặt lấy cc ǵ ăn?

[13] Bây chừ muốn có tiền , Phải đem nhau đi bối  饒 𠫾 : Bây giờ muốn giải quyết cơn nghèo, chúng ta cùng nhau đi ăn trộm [trên sông].. Ngày xưa sông rạch nhiều, lưu thông chủ yếu là ghe xuồng nên tệ nạn ăn trộm trên sông phát triển mạnh. C̣n lưu lại danh bối Ba Cụm, chỗ Chợ Đệm ngày nay với các tài nghệ của bối và những câu ḥ dẫn dụ. Thằng Súc xúi dại, chắc ở lâu cho nhà giàu nó ăn quen mà làm không quen. Bản chất bất lương của Lục Tồn bộc lộ khi chấp nhận giải pháp nầy của người đệ tử xấu. Bản Nôm khắc chữ nhau thành chữ theo !

[14] Thiên vơng nan đào 天 網 難 逃, Sơ nhi bất lậu 疏 而 不 漏: Lưới trời khó thoát, thưa mà không lọt. Kẻ làm quấy thế nào cũng bị nạn trời, chậm hay mau thôi trước sau ǵ cũng sa lưới. Cái hay cuối đời của Ba Bành là không nhúng ḿnh thêm vào tội lỗi, đă vận dụng lời của ông bà xưa để từ chối con đường xấu.

[15] May gặp đặng trúng to 埋 及 卭 中 蘇,C̣n chi mà sức mánh 群 之 麻 𠯅 : Nếu may mắn trúng mối lớn th́ khỏi nạn hết tiền. Chữ may nầy nghe phát giận. May của bọn trộm cắp th́ người ngay có mà hết vốn! Giống như thời nay kẻ làm bậy bị vịn th́ nói rằng ḿnh rủi, không biết ǵ đến chuyện làm sai quấy của ḿnh! Sức mánh 𠯅 : bị hết tiền. Bản nôm mượn mấn để viết mánh. Mánh tiếng Tiều có nghĩa là tiền.

[16] Chỗ nầy bản Nôm chỉ có hai chữ như mà 如麻. Tôi nghĩ rằng thợ khắc đă nhảy 1, 2 hàng.

[17] Chi thua mưu Tôn Tẩn 之 收 謀 孫 濱, thiệt hơn khách Thường Quân 實 欣 客 常 君: Các mẹo hay thoát hiểm. Tôn Tẩn giả điên thoát nạn Bàng Quyên, Mạnh Thường Quân ra cổng thành không được, các tân khách giả tiếng gà để quân canh tưởng trời sáng mà mở cổng, nhờ đó thoát nạn.

[18] Nghe qua chưa giỏi 𠵌 戈 渚 唯, Nghĩ lại không hay 𢪀 吏 空 咍: Nghe rồi nghĩ lại th́ thấy không được, đề nghị đưa ra dở lắm. Điều hay của Ba Bành là biết bát bỏ đề nghị bất nhơn của thằng Súc. Bản Nôm chữ nghĩ 𢪀 thường bị viết sai, bộ thủ thường bị thế khi th́ bộ tâm , khi th́ bộ nữ như trường hợp nầy.

[19] Ăn cắp ắt quen tay 咹 吸 乙 涓 𢬣, Ngủ ngày quen con mắt 𥄭  㳙 昆 : Ba Bành vận dụng tục ngữ để từ chối con đường xấu nguy hiểm cho ḿnh, cũng khá! Bản Nôm viết chữ cắp thành hấp . Chữ ngủ 𥄭 bộ mục sai thành bộ bối !

[20] Bóng Bưởi 俸 : Tên người đứng đầu nhóm múa bóng. Bản Nôm viết bỡi , dễ lầm với bảy . P. H. S.  đọc là Bảy , tôi đọc Bưởi, chữ nầy đối với bông ở dưới, bưởi <> bông.

[21] Mựa nài vạn hải thiên san 嗎 奈 萬 海 千 山, Chớ ngại tuyết sương mộc vơ 渚  雪 霜 霂 雨: Đừng ngại sông núi hiểm trở, chớ sợ tuyết sương mưa gió cực khổ. Mộc vơ 霂雨: Nói chung là mưa gió; mộc , mưa phùn. Vế đầu chữ nài đă bị khắc thành tế . Vế sau chữ nài được lập lại, tôi phải bỏ nguyên tắc của ḿnh là không sửa mà đổi lại là ngại , ngại quá, nhưng không sửa không được!  

[22] Ham trong bỏ đục tại ḿnh lá lay 𦹳 冲 補 濁 在 𨉟 𦲿 : tại ḿnh kiếm chuyện để bỏ chỗ nầy bắt chỗ kia, tham phú phụ bần. Ba Bành cũng chưa thiệt sự thấy sự sai lầm của ḿnh khi dùng nhóm chữ ham trong bỏ đục. Lá lay  萊: trớ trêu, sanh sự, cố ư làm/nói chuyện tréo cẳng ngỗng. Ở đây là ḷng muốn bỏ chồng nghèo ngu hèn để kiếm chồng khác giàu khôn hơn. Húnh Tịnh Của, lá lay 𦲿: hay sanh chuyện, hay lắc lở, hay đặt điều, hay thèo lẻo. Thơ Hậu Chàng Nhái: Đáp rằng bà khéo lá lay/ Vốn là chị gái của tôi ai nào!  Bản Nôm viết chữ đơn lay sai nét thành thuốc . Tôi đọc ham v́ bản Nôm viết tham với bộ thảo . Bộ thảo nầy tác dụng như cảnh báo rằng không đọc là tham, -- như trường hợp chữ ham viết bằng tham kèm theo bộ khẩu.