Trương Ngáo, cảnh 4

Thiện nam tín nữ cúng chùa, đúc tượng

 

Ỷ Rạng:

     Quê ngụ chợ Tú Giang, Thiếp biểu xưng Ỷ Rạng[1]. Dẫy thương những lụa bông hàng sắc, Đầy nhà nguyên bát gấm mâm son[2]. Như tôi: Ḷng hằng muốn làm nhơn, Dạ ghét người nịnh[3]. Thời, Năm ngoái cũng đà thọ phái, Ngày năm xưa lại có qui y. Hằng tưởng chữ từ bi, Lại niệm câu Bồ Tát. Ờ! Ta nghe thiên hạ đồn rằng bữa trước, thời Chùa Vạn Linh đúc Phật Trung Tôn[4]. Gia đinh! Kêu chị Mai chị Liễu lại đây, Đặng đem sáp đem tiền đi cúng.

 

Lại nói:                                  

     Ờ, các chị em, bây chừ ta lên (4b) chùa, ta biết cúng giống chi đây[5]?

 

Thị Liễu:

     Thưa ỷ: Nếp tốt [tôi] sắm rồi một thúng, Tiền đồng soạn đặng ba quan. Chị Mai đà có sáp có nhang, C̣n phần ỷ, mặc t́nh tùy ư thôi mà!

 

Ỷ Rạng:

     Vậy thời: Đă đủ trong bổn thị, ta sá kíp đăng tŕnh. Phăng phăng chỉ dặm Vạn Linh, Chóng chóng trông chừng am tự các chị hè!

 

Hát nam:

                   Chóng chóng trông chừng am tự,

Ḷng dặn [ḷng] niệm chữ từ bi.

Nam mô A Di Đà Phật.

Đă rằng tầm Phật qui y,

Bao nài dặm thẳng chi sờn đường xa.

 

Thị Liễu hát nam:

Nam mô hai chữ Di Đà,

Dâm đồ khỏi lụy, hải hà đặng sang[6].

Sau dầu lên chốn Thiên Đàng,

Thời ḷng tác phước cầu duyên mựa nài[7].

 

Ỷ Mai hát nam:

Đă rằng niệm giữ hôm mai,

Tốt duyên thời cũng có ngày siêu thăng[8].

Thiện nam tín nữ lăng xăng,

Kẻ bưng quả nếp người bưng mâm trà.

 

CẢNH 5

 



[1] Quê ngụ chợ Tú Giang 圭 寓 𢄂 秀 江, Thiếp biểu xưng Ỷ Rạng 妾 表 稱 倚 朗: Nhân vật mới ra sân khấu, tự giới thiệu. : tiếng Triều Châu, giọng giữa ư, có nghĩa là d́, cách kêu trọng người đàn bà đứng tuổi.

[2] Dẫy thương những lụa bông hàng sắc 汜 蒼 仍   韓 色, Đầy nhà nguyên bát gấm mâm son 苔 茹 原 鉢 錦 𣙺 : Nhiều căn chuyên bán hàng vải tơ lụa. Cả nhà toàn chứa bát gấm mâm son. Hàng sắc 韓 色: các thứ hàng vải màu sắc bông hoa. Bát gấm mâm son 鉢 錦 𣙺 : chén có vẽ bông hoa [như vải gấm thêu hoa] và mâm sơn đỏ, đồ quí. Bát gấm tức bát sứ, chén sứ, chỉ chén dĩa làm bên Tàu do người đi sứ sang đó đặt làm. Bát gấm mâm son c̣n được nói là bát sứ mâm son. Tác giả cho đối hàng sắc 韓 色 với mâm son 𣙺 v́ với ông sắc sắt  thông. Bản Nôm khắc chữ mâm 𣙺 bằng bộ thủ thay v́ bộ mộc có lẽ v́ thợ khắc nh́n không rơ.

[3] Ḷng hằng muốn làm nhơn 𢚸 恒 悶  仁, Dạ ghét người nịnh 胣 咭 𠊚 : Ḷng muốn  làm nhơn đức nên ghét kẻ xấu. Vế sau không đủ chữ, ông P. H. S. đổi lại là : Dạ ghét người tà vạy. Hiệp vần, hay hơn tuy rằng không thiệt sự đối! Bản Nôm khắc sai chữ nịnh thành chữ khương ? Vô nghĩa. Có lẽ v́ vậy ông P. H. S. đổi thành tà vạy chăng?

[4] Ta nghe thiên hạ đồn rằng bữa trước 𠵌 天 下 屯 浪 𩛷 , Chùa Vạn Linh đúc Phật Trung Tôn 厨 萬 灵 𨯹  中 尊: Hôm nọ nghe người ta nói chùa Vạn Linh đúc Phật. Chữ bữa 𩛷  khắc bộ thực sai thành chữ ấp .

[5] Bây chừ ta lên chùa 悲 除 些 𨑗 , Ta biết cúng giống chi đây 些 别 供 種 之 低: Đi chùa nhưng trong ḷng ḿnh thắc mắc không biết phải cúng thứ ǵ. Chữ giống chi 種 之 nay là từ không lịch sự, ngày xưa chỉ là tiếng thường dùng như những tiếng thứ ǵ, loại ǵ.. không mang nghĩa xấu. Nhân vật trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thường nói kiểu nầy.

[6] Dâm đồ khỏi lụy 淫 途 塊 累, Hải hà đặng sang 海 河 卭 郎: Khỏi lụy vô đường tà vạy, được thoát ra khỏi sông mê bể khổ. Giải thoát. Đạt đạo.

[7] Sau dầu lên chốn thiên đàng 娄 油 𨑗 凖 天 堂, Thời ḷng tác phước cầu duyên mựa nài 𢚸 作 福 求 緣 嗎 奈: Không nề hà làm chuyện phước đức để tạo duyên tốt, miễn là sau nầy được lên thiên đường. Ư nghĩ của người tu phước chỉ nhắm đến chuyện thiên đường, không phải kẻ tu huệ chuyên chú việc kinh kệ, Phật điển. Truyện Săi Văi: Tham thiên đường phải giữ ḷng lành, sợ địa ngục nên chừa thói dữ.

[8] Đă rằng niệm giữ hôm mai 㐌 浪 念 㑏 歆 枚, Tốt duyên th́ cũng có ngày siêu thăng 卒 緣 時 拱 固  超 升 : Ngày ngày tụng niệm giữ ǵn [thân ư khẩu], nếu gặp cơ duyên th́ được siêu thăng Tịnh Độ. Bản Nôm khắc chữ hôm phần chữ âm sai thành chữ tích .