Truơng Ngáo, cảnh 2

Ba Bành vay vốn của Lục Tồn

 

Ba Bành:

     Thiếp nay Liễu thị, Ốc[1] hiệu Ba Bành. Việc làm hồ hỗn quá chằn tinh. Nghề đôi mách xứng hơn xốc lá[2]. Như thiếp: Khéo biết làm nem làm chạo, Tài cũng hay bán bộ bán thuyền[3]. Như tôi nay: Tưởng cầm cơ đợi bực ông Nghè, Rủi bạc phận đụng nhằm chú Ngáo[4]. Nói thời nói, chớ như chồng tôi nay: Việc làm thời lếu láo, tánh ở lại ngất ngơ[5]. Đi thời tuôn bụi [tuôn] bờ, ngồi lại nói khùng nói khịu[6]. Trách bấy ông tơ lăng líu, Hiềm thay bà nguyệt vấn vương[7]. Ờ! Bà nguyệt chớ vấn vương, là vấn vương làm chi những đứa khùng đứa khịu cho tôi kia chớ! Hèn chi thiên hạ người ta nói thiệt mà: Ba mươi kiếp hồng nhan thời mang những điều bạc phận đà phải! Như tôi: Giận thời nói [nói] cho đă giận mà thôi, Chớ nghèo phải lo mới đỡ cơn nghèo[8]. Chừ: Đi nỡ để cám treo mà bỏ heo nhịn đói[9] hay (2b) mần răng? Chồng tôi giỏi thời tính theo việc giỏi, Như nó hư dùng việc hư. Chừ tôi tính mần ri mới đặng cho: Lên Hộ Tồn tỏ nỗi sự cơ, Vay nửa chục về ta làm vốn[10].

 

Hộ Tồn, bạch:

Bất nông bất sĩ hựu bất công.

Ngang ngang ấp lư tự xưng hùng.

Đồng kim tác táo tranh Vương Khải,

Tự lạp đại tân tỉ Thạch Sùng[11].

 

Lại nói:

     Quê ngụ đất Khải Phong, Mỗ Sáu Tồn phú hộ[12]. Thời tôi nghĩ lại đó mà tôi coi: Việc buôn bán ở nơi căn số, Nghề làm ăn cũng có giàu nghèo[13]. Chớ thời thuở trước tôi cũng nghèo lắm. Tôi cũng vay ba quan tiền, tôi mua một cặp heo[14]. Tôi vay một giạ lúa cũng làm vốn[15], Có một nghề đặt rượu nuôi heo, bây chừ mới cao nhà lớn nổng[16]. Chớ thuở trước, tôi đi gặp cái thứ đàn bà con mẹ đà ba mươi đứa con, tôi mới nói chơi nó, nó lại mắng tôi[17]: Những quần đầu chỏ, áo nống trôn[18] (3a), nó lại chửi tôi. Tới bây chừ con gái lịch sự thấy tôi cũng muốn. C̣n người thanh tao gặp mỗ cũng phải  chào[19]. Nào phô thuốc đốt trầu trao, Lật đật trà khuyên rượu tiến[20] nữa mà! Hèn chi thánh nhân người có nói rằng, phải mà: Bần cư náo thị vô nhân vấn, C̣n: Phú tại lâm sơn hữu viễn thân[21] thời có phải mà! Như tôi: Cấp mễ đầy đă khắp hương thôn, C̣n: Cho tiền tháng đầy trong ấp lư.[22]

 

Lại nói:

      Ờ, nầy con mẹ Ba Bành đây mà! Ta chào Ba Bành Liễu thị, Kêu trẻ trải chiếu ra đây. Tới nhà có chuyện chi? Mời chị mầy ngồi đó[23]. Chẳng hay con mẹ Ba Bành tới nhà lăo có chuyện chi đó?

 

Ba Bành:

     Làn đan vào cửa đỏ, Khép nép tỏ ḷng son[24]. Dám thưa cậu[25], số là: Tôi tính việc đi buôn, Xin cậu giùm cái vốn[26]. Tôi vay trong ba tháng, Cậu trợ lấy năm quan[27]. Tới ngày sẽ tính lai hoàn, Giáp tháng dám đâu trễ năi. (3b)

 

Hộ Tồn:

     Thời, chị em cho biết phải, Tiền bạc dễ thiếu chi. Ở biết kiếng biết v́ luận chi trăm chi chục[28]. Nào gia đinh đó: Vô kêu thằng Súc, Cho nó lấy tiền[29]. Năm quan chẳng luận tờ biên, Tới ba tháng thời huờn bản lợi[30].

 

Ba Bành:

     Cậu đà tưởng tới, Tôi cảm đội ơn. Thưa: Nơi huê viện dời chơn, Chốn cẩm đường lui gót[31].

 

CẢNH 3

 



[1] Thiếp nay Liễu thị 妾  柳 氏, Ốc hiệu Ba Bành 沃 号 𠀧 : Tôi họ Liễu, tên là Ba Bành. Ốc hiệu 沃号 tiếng xưa, có nghĩa tên gọi là. Lưu B́nh Phú [trang 3a] có câu: Anh c̣n chút bạn hiền nghĩa cũ 英 群 㤕 伴 䝨  , danh ốc Lưu B́nh 名 屋 刘 平, cùng bạn thư sinh 共 伴 書 生. Danh ốc 名屋: tên gọi là… chữ ốc 屋,沃 đến cuối thể kỷ 19 đầu 20 đă trở thành từ cổ, không có trong tự điển của ông HTC, và ông PHS không muốn dùng nó nên đă đọc từ khó hiểu ốc hiệu bằng mỹ hiệu. Cũng chỉ là đọc cho thuận câu thuận chữ, không đúng với bản Nôm.

[2] Việc làm hồ hổn quá chằn tinh 役  胡 混 过 𤠶 : Ngh đôi mách xứng hơn xốc lá 芸 堆 覓 称 欣 朔 𦲿: Trong khi đi làm th́ hổn ẩu, dữ hơn bà chằn [với người cùng làm]. Ưa chuyện đàn bà nói tới nói lui, chẳng nên nghề ngỗng ǵ. Ba Bành tự đánh giá rằng nghề nhiều chuyện c̣n giỏi hơn nghề xốc lá. Làm hồ 胡: Không phải nghĩa đi làm phu hồ như ngày nay mà là nhuộm hồ cho vải cứng hơn dầy hơn, công chuyện linh tinh liên quan đến nghề vải, đủi. Chằn tinh là h́nh tượng ác, xấu trong truyện kể dân gian Miền Nam, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Không thể phiên âm là trăn tinh như nhiều người chủ trương gần đây. Xốc lá 𦲿: lấy lá dừa xốc nóc nhà, lợp mái. Xấp nóc> xốc nóc> xốc lá…. Bản nôm viết xốc lá thành sóc lá 𦲿, giọng Miền Nam.

[3] Khéo biết làm nem làm chạo 窖别腩鮉, Tài hay bán bộ bán thuyền 才 咍 半 步 半 船 : Khéo léo trong nghề gia chánh, Giỏi việc bán buôn. Bán bộ bán thuyền 半步半船: Mua gánh bán bưng hay bơi xuồng bán hàng trên sông rạch. Tiếng chung chỉ buôn bán.

[4] Tưởng cầm cơ đợi bực ông Nghè 想 扲 机 待 幅 翁 儀, Rủi bạc phận đụng nhằm chú Ngáo 𡂳 泊 分 動 𠰃 注 堯: Tưởng là kén chọn th́ gặp được người đỗ đạt danh giá, Ai ngờ xui xẻo nên lấy nhằm thằng Ngáo. Già kén chẹn hom! Cầm cơ 扲 机: Đợi thời vận, chờ đợi. Đụng: HTC , xán vô. Đây có nghĩa lấy chồng, lấy vợ trong cách nói ngày xưa.  Ca Dao Miền Nam: Đó con quan đây cũng con làng. Chỗ người gần em không đụng, đụng bạn hàng xa xôi. Hồ Biểu Chánh thường dùng chữ đụng theo nghĩa nầy: … cô đụng ông chủ sự sở Thương Chánh, bây giờ vợ chồng cô ở tại Sa Đéc. (Thầy Thông Ngôn, nhà xuất bản Văn Hóa Sàigon, 2005, trang 120). Để ư bản Nôm viết đụng bằng bộ nhân hài thanh với chữ động , bộ nhân ở đây như là dấu chỉ phải đọc khác âm động nên có giá trị như dấu nháy. Đây là trường hợp khác với bộ nhân trong chữ Ngáo

[5] Việc làm thời lếu láo: 𠮩 , Tánh ở lại ngất ngơ 𠽐: Không biết chăm chỉ làm lụng, chỉ quọt quẹt quấy quá cho có, tánh t́nh ăn ở lại cà tàng, ngớ ngẩn. Lếu láo 𠮩: làm việc ǵ chỉ chú đến xong việc, không để ư đến kết quả phải cho tốt. HTC, Lếu láo: Quấy quá, vô t́nh, vô ư, ngơ ngẩn, không biết sự ǵ; không nên thân, không nên người.

[6] Đi thời tuôn bụi bờ 𠫾 𣻆 培 坡, Ngồi lại nói khùng nói khịu 𡎥 吏 呐 穷 呐 召: Cử chỉ và lời nói không được b́nh thường như thiên hạ. Ba Bành thị chồng rất thấp, đó là nguồn gốc của chuyện đánh chồng và thay chồng sau nầy. Câu trên hoặc thiếu chữ tuôn 𣻆 hoặc dư chữ nói . Nghĩ rằng thiếu chữ tuôn. Sửa lại: Đi thời tuôn bụi [tuôn] bờ, ngồi lại nói khùng nói khịu.

[7] Trách bấy ông tơ lăng líu 責 閉 󰎰 絲 凌 𣱾, Hiềm thay bà nguyệt vấn vương 嫌 台 妑 月 問 王: Giận tức duyên tơ xe lộn mối, cho tôi mối xấu. Lăng líu 𣱾: làm chuyện lộn xộn. Hiềm , giận ghét, HTC, tích sự oán thù, cừu hận.

[8] Giận thời phải nói cho đă giận 陣 時 沛 呐 朱 㐌 陣, Nghèo phải lo mới đỡ cơn nghèo 𠨪 沛 卢 買 拖 干 𠨪: Buồn giận hoàn cảnh th́ nói cho đă miệng, chớ túng th́ phải tính, phải chạy ngược chạy xuôi. C̣n có thể vay mượn được th́ đâu chịu thua. Ba Bành quả là người biết tính toán chuyện thời cơ. V́ vậy ta không lạ khi thấy Ba Bành dễ dàng bỏ Ngáo theo Lục Tồn.  Bản Nôm khắc chữ đơn lo thiếu nét thành chữ hộ .

[9] Đi nỡ để cám treo 𠫾 𦬑 底 感 撩 mà bỏ heo nhịn đói  麻 補 㺧 𠴍 対: Có th́ phải xài, không phí mà bỏ không. Ngáo dở mọi mặt nhưng cũng có thể tạm xài được chuyện nầy chuyện kia.

[10] Lên Hộ Tồn tỏ nỗi sự cơ 𨑗 , Vay nửa chục về ta làm vốn 爲  姅 逐 𧗱 些  本: Tới nhà Hộ Tồn than thở t́nh trạng gia cảnh để vay năm quan tiền về làm vốn bán buôn. Chữ 𨑗 đọc là lên trên, cũng như  𨑜 đọc dưới xuống.

[11] Bất nông bất sĩ hựu bất công 不 農 不 仕 又 不 工: Ḿnh không phải nông, sĩ, công, vậy th́ anh chàng nầy theo nghề thương. Đó là nói vậy chớ thiệt sự Lục Tồn theo nghề cho vay! Ngang ngang ấp lư tự xưng hùng 昻 昻 邑 里 自 称 雄. Ngang nhiên xưng hùng xưng bá ở trong làng xóm. Đồng kim tác táo tranh Vương Khải: 銅 金 作 燥 争 王 啓: Lấy đồng làm bếp tranh với Vương Khải, Tự lạp đại tân tỉ Thạch Sùng 自 臘 代 薪 比 石 崇: Dùng sáp thay củi chụm bếp so sánh với Thạch Sùng. Trong tuồng hát bội thể hát gọi là bạch để cho nhân vật tŕnh bày về ḿnh bằng một bài thơ tứ tuyệt bằng Hán Văn. Ở đây Lục Tồn dùng hai câu đầu nói nghề nghiệp và vai vế của ḿnh trong địa phương, hai câu kế cho biết ḿnh đang giàu có.

[12] Quê ngụ đất Khải Phong 圭 寓 坦 凱 豐, Mỗ Sáu Tồn phú hộ 𦒹 存 富 户: Nhân vật giàu có Lục Tồn xưng danh tánh. Trong tuồng hát bội, nhân vật xuất hiện lần đầu tiên trên sân khấu khai tên tuổi, quê quán, nói những hoài băo, những ước mơ, ngay cả ư định soán ngôi, ḷng thù hận muốn ám hại người … là chuyện bắt buộc. Đây không c̣n thuần là lời của chính nhân vật đó nói ra, đây là một kỷ thuật của tuồng có vai tṛ như là tiếng nói thầm của nhân vật, như là ai đó nói về nhân vật nầy. Kỷ thuật nầy nhằm cung cấp cho người xem những chi tiết để hiểu về nhân vật đang đứng trên sân khấu. Lục Tồn không dám xưng Lục Tồn mà xưng là Sáu Tồn, chuyện có lư do của nó! Để ư chữ đất trong bản Nôm viết dư nét, phần chữ đán  thành chữ cắng .

[13] Việc buôn bán ở nơi căn số 役 奔 半 於 尼 根 數, Nghề làm ăn cũng có giàu nghèo 芸  咹 拱 固 𢀭 𠨪: Buôn bán có số có phần cho nên cùng buôn bán mà có kẻ giàu người nghèo. Thiệt ra Lục Tồn chỉ nói theo niềm tin xưa, hay nói để an ủi người nghèo chung quanh. Chuyện giàu nghèo tùy thuộc phần nhiều vào sự khôn ngoan lanh lợi của người buôn bán. Chữ nghèo 𠨪 đây – và nhiều chỗ khác - khắc sai thành chữ nhau 饒.

[14] Tôi cũng vay ba quan tiền 碎 拱 撝 𠀧 貫 錢, Tôi mua một cặp heo 󰀴  及 㺧: Lục Tồn nói về bước đường đầu tiên xây dựng sự nghiệp của ḿnh. Cũng vay nợ, cũng khởi cuộc bằng nghèo khổ, nhưng khá lần lần [là nhờ cần mẫn và sự lơ là ngu dốt của người chung quanh.] Chữ một khắc sai thành nghệ . Cũng như chữ nên, nhiều trường hợp chữ một như thế nầy.

[15] Tôi vay một giạ lúa cũng làm vốn 碎 撝  胣 穭 拱  本: Nghèo đến nỗi một giạ lúa cũng phải vay! Thương thay. Vậy mà về sau giàu lên th́ sanh tật gái ghiếc bạc bài cho đến nỗi tán gia bại sản, nghèo rớt mồng tơi trở lại. Chữ lúa viết sai thành trổ . Chữ giạ viết với giọng Miền Nam dạ 胣.

[16] Có một nghề đặt rượu nuôi heo 𨢇 , Bây giờ mới cao nhà lớn nổng 悲 除 買 高 茹 吝 擃: Nhất nghệ tinh nhất thân vinh, nhờ có nghề nuôi heo và đặt rượu (lấy bả rượu nuôi heo!), Nay mới được nhà lớn đất rộng. Bản nôm viết thủ + nông tôi đọc nổng: đất g̣, chỉ đất nói chung. Không thể đọc là cổng được dầu thành ngữ cao nhà lớn cổng thường nghe nói. Chữ nổng thường được viết với bộ sơn hoặc các bộ khác như thổ, mộc, bộ thủ dùng chỗ nầy do người viết Nôm viết quấy quá. Chữ nuôi phần bộ thực đă sai thành bộ nữ .

[17] Con mẹ đà ba mươi đứa con 昆 媄 它 𠀧 𨑮 𠁂 昆, Tôi mới nói chơi nó nó lại mắng tôi 碎 買 呐 𠶜 奴 奴 吏 莾 碎. Tôi bông lơn với phụ nữ, dầu là người già, nhưng v́ tôi nghèo nên bị họ nói trên đầu trên cổ. Ba mươi đứa con 𠀧 𨑮 𠁂 : Cách nói quá, chỉ đàn bà qua nhiều lửa, không c̣n trẻ đẹp ǵ nữa. Tiếng con mẹ, thằng cha là tiếng thông tục ngụ ư khinh dễ một người nào đó, Lục Tồn dùng tiếng nầy như ngầm cho biết rằng thứ đó đối với ḿnh bây giờ chẳng có giá trị ǵ. Nói chơi 𠶜: Nói xa xa gần gần để dọ t́nh ư phái nữ. Bản Nôm mắng bị khắc thành buôn .

[18] Quần đầu chỏ áo nống trôn 裙 頭 拄 袄 擃 腀: Người nghèo quá mạng, quần chỉ tới gối, áo th́ ngắn quá, dỡ hổng lên, ḷi mông. HTC, nống lên 擃 , chống đỡ lên. (Hai chữ chỏnống bản Nôm viết với bộ y do ảnh hưởng của các chữ áo quần.

[19] Con gái lịch sự thấy tôi cũng muốn 𡛔 , Người thanh tao gặp mỗ phải chào 㝵 清 幍 及 某 沛 嘲: Thiếu nữ trẻ đẹp rất thích tôi, gặp tôi th́ chào hỏi, th́ làm thân. Lục Tồn biết thóp bụng dạ người đời và cũng rất tự tin. Tự tin nên anh ta biết ḿnh phải nói ǵ với Ba Bành khi cần thiết. Gái lịch sự 𡛔 歷 事: gái đẹp. Truyện Săi Văi: Gái mười bảy lịch ôi quá lịch. Từ lịch , lịch sự 歷事 chỉ con gái đẹp cách nay 50 năm c̣n xài, giờ đă vào dĩ văng nhường chỗ cho những từ mới phát sinh. Người  thanh tao, tức người lịch sự nói trên. HTC, thanh tao, thanh bai, thanh lịch, thanh cảnh: Xinh tốt, đẹp đẽ, lịch sự, điển dắn, dịu dàng không kịch (quê kệch). Không hiểu sao bản Nôm viết thanh tao thành thanh thao 清 幍.

[20] Nào phô thuốc đốt trầu trao  哺 󰏕 焠 蒌 𢭂, Lật đật trà khuyên rượu tiến 栗 達 茶 勸 𨢇 :  Ai cũng làm thân, lễ phép lịch sự, mời đủ thứ rượu trà trầu thuốc để tỏ vẻ thân thiện. Trà khuyên 茶 勸: mời trà. Bản Nôm viết lầm thành trà hoan 茶 歡.

[21] Bần  cư náo thị vô nhơn vấn 貧 居 閙 市 無 人 問 , Phú tại sơn lâm hữu viễn thân 富 在 山 林 有 遠 親: Hai câu thơ cổ nói về t́nh đời, thói thường thấy giàu có th́ t́m đến, thấy nghèo hèn th́ lánh xa. Bản Nôm viết lầm náo thị 閙市 thành nhàn thị 閒市!

[22] Cấp mễ đầy đà khắp hương thôn 給 米 苔 㐌 泣 鄕 村, Cho tiền tháng đầy trong ấp lư 朱 錢 𣎃 苔 冲 邑 里: [Ḿnh] Cho vay tiền, cho mượn gạo khắp trong làng ngoài xóm. Cách nói tự phụ ta đây giàu có, nhiều kẻ phụ thuộc, nhờ cậy giùm giúp.

[23] Tới nhà có chuyện chi 細 茹 固 𡀯 , Mời chị mầy ngồi đó 𠶆 姉  𡎥 : Xin chào mới tới, xin mời ngồi. Câu tới nhà có chuyện chi, như là câu chào khách đến nhà. Cách chào như là hỏi kiểu nầy ngày nay ít dùng. Cả câu toát ra sự thân thiện đồng thời biểu lộ sự tự tin về t́nh trạng trên trước, giàu có của ḿnh. Chữ chị mầy 姊 眉 Lục Tồn dùng có tính toán. Không phải chị, không phải mầy mà là chị mầy.  Như là chị bầy trẻ, tiếng thân mật.

[24] Làn đan vào cửa đỏ 郎 单 𠓨 赭, Khép nép tỏ ḷng son 󰑺 納 訴 𢚸 : Khúm núm bước vào nhà giàu để tỏ nỗi ḷng của tôi. Cửa đỏ 𨷶 chỉ nhà giàu, không nhất thiết phải sơn đỏ như ngày xưa. Cũng như chữ son trong ḷng son 𢚸 chỉ có giá trị làm đẹp câu văn. Làn đan 郎单 từ xưa có nghĩa sự phải khiêm cung của người dưới/nghèo đối với kẻ trên/giàu, cũng có nghĩa sự vô phép đối với người trên trước. Chữ nầy c̣n sót lại rất ít trong văn vần. Thấy nhiều trong tuồng hát bội. Truyện thơ Lưu Nữ Tướng có câu Thôi thôi chẳng dám làn đan nữa là hay Hoa Tiên, Bớt lời xin chớ làn đan lắm lời. Génibrel (闌單 539, 191) Bonet, HTC (闌單264,537) đều có. Không thể đọc loàn đơn như Lại Ngọc Cang. Phiên lang đơn như PHS cũng c̣n khả thể v́ coi theo tự dạng chữ Nôm 郎单, nhưng tự điển trước đó đă có âm làn đan th́ phải căn cứ theo âm đó.

[25] Dám thưa cậu  踈 舊: Cùng nghĩa với Dạ thưa cậu, nhưng mà giọng c̣n lễ phép hơn nữa. Đó là thái độ khôn ngoan nhún nhường của Ba Bành khi cần thiết. Bản Nôm viết chữ cựu tôi phân vân giữa hai chữ cậu/cửu. Cửu là cách nói của người ở vùng có nhiều ảnh hưởng của người Tiều để gọi cậu hay tỏ vẻ kính trọng ai đó, c̣n trẻ. Để ư tác giả gọi nhân vật D́ Rạng bằng Ỷ Rạng.

[26] Tôi tính việc đi buôn 碎 併 役 𠫾 , Xin cậu giùm cái vốn 嗔 舅 𠆳 丐 本: Tôi muốn đi buôn bán, [ngặt không có tiền] xin cậu làm ơn cho tôi mượn chút vốn. Giùm [口+𠆳], tiếng cầu xin lịch sự nhún nhường. Ai đi mượn tiền mà chẳng nói giọng dễ thương của kẻ con, sau nầy tới chừng đ̣i kẻ cho vay mượn nếu không có mồng có mỏ dễ ǵ đ̣i được. Mà không phải chỉ có mượn tiền, trong Nam nhờ cậy chuyện ǵ cũng xài chữ giùm dễ thương nầy. Tuồng Trương Ngố [2a], người muốn mướn thằng Ngố đă nói với mẹ nó một cách lịch sự: Chị giùm thằng Ngố một phen, Ở với tôi rày đặng đỡ tay chưn.

[27] Tôi vay trong ba tháng 碎  撝 冲 𠀧 𣎃, Cậu trợ lấy năm quan 𦔳 𥙩 𠄼 :  Ba Bành nói rơ ràng điều ḿnh muốn với thời gian vay và số tiền vay, đúng là người biết ḿnh muốn ǵ và cần nói những ǵ! Chữ trợ giống như chữ giùm ở trên có vẻ kính trọng, tâng bốc người đối thoại. Tôi th́ tôi vay, c̣n cậu th́ cậu trợ, nghĩa là giùm giúp tôi. Chữ nghĩa thiệt là khéo!

[28] Ở biết kính biết v́ 於 别 敬 别  &, Luận chi trăm chi chục 論 之 𤾓 之 逐: Ở ăn đối xử với nhau theo lẽ phải th́, ối thôi, tiền trăm bạc chục cũng là nhỏ mọn. Chữ Nôm & tôi không đọc nỗi. Xin chờ cao kiến. Tạm ghi là chọn theo cách đọc-sửa của P. H. S., không đúng mặt chữ.                                            

[29] Vô kêu thằng Súc 無 呌 倘 畜, Cho nó lấy tiền 朱 奴 𥙩 : Kêu thằng Súc lấy tiền đưa cho Ba Bành. Xưa nhà giàu sang thường thường dùng một người tín cẩn chuyên lo việc chi thu những món tiền nho nhỏ, ḿnh khỏi bận tâm làm chuyện lắt nhắt. Thằng Súc 倘 畜 giữ  vai tṛ  nầy, như  kiểu tài phú nếu nói tiếng thông dụng chừng một thế kỷ trước. (Chữ súc thêm bộ nhân để chỉ một cái tên Nôm, có thể đọc bằng nhiều âm, P. H. S. đọc là Sốt. Tôi đọc Súc v́ v́ thấy nó phải hiệp vần với chữ chục ở trên.)

[30] Năm quan chẳng luận tờ biên 𠄼 貫 庒 論 詞 編, Tới ba tháng thời hoàn bản lợi 𠀧 躺 時 完 本 利: Tiền cho vay chỉ có năm quan cần ǵ giấy tờ cho thêm rộn ràng, đủ ba tháng th́ trả một lần cả lời lẫn vốn. Chữ lợi ở đây là tiền lời, tiền lăi, không phải lợi là lại, chỉ trả lại tiền vốn mà thôi. Sáu Tồn là tay cho vay, không có cái chuyện cho vay không lời! Đọc hoàn vốn lợi dễ gây hiểu lầm.

[31] Nơi huê viện dời chơn 尼 花 院 移 真, Chốn cẩm đường lui gót 准 錦 堂 雷 𨃴: Xin từ giă. Huê viện 花 院, vườn hoacẩm đường 錦 堂 , pḥng gấm, là những tiếng dùng cho đẹp lời để chỉ nơi nhà giàu, không nhứt thiết là phải có huê viên, có pḥng gấm. Văn chương xưa sính dùng cách nầy.