Trương Ngáo, cảnh 1

Ông Bà họ Lưu tổ chức đúc tượng Phật chùa Vạn Linh

 

 

Lưu Ông: [1b]

     Đền Nam nhuần lễ nhạc, Đất Hớn trổ văn chương. Thuở thái b́nh quốc thới dân khương, Đời thạnh trị dân phong vật thụ[1]. Quê ngụ miền Giang Tú, Lăo biểu tự Lưu Ông. Thuở mày xanh từng chịu ấn rồng, nay đầu bạc biếng kề giá hạc[2].

Lại nói:

     Tưởng bầy của cũng đà lưu loát, Hiềm v́ con rất đổi thiệt tḥi[3]. Sau dầu xuống chốn luân hồi, Đà không kẻ giữ ǵn phụng tự[4] đi rồi mụ!

Lưu Bà:

     Muốn đặng thiện duyên hai chữ, Phải lo tác phước ngàn ngày[5]. Chùa Vạn Linh từ lập tới nay, Của tam bảo sắm vô c̣n thiếu. Chừ thôi thời ta: Đem tiền bạc nhóm thêm bổn đạo. Mua đồng đúc Phật Trung Tôn[6]. Bây chừ ta có tiếng đồn, Ngày sau cũng đặng nhờ chút phước[7] nữa chăng?

Lưu Ông:

     Mụ đà nói trước, Lăo phải theo sau[8]. Nghe lăo dặn: Khá sắm sửa tương rau, Mau liệu dùng nếp đậu. Cho kịp ngày Tân Dậu, Trong nội tháng Nhâm Dần. Rước tài công tua khá (2a) ân cần, mời bổn đạo ngỏ cho hoan hỉ[9].

 

CẢNH 2

 



[1] Đền Nam nhuần lễ nhạc 𡊰 南 潤 禮 樂,Đất Hớn trổ văn chương 坦 漢 擼 文 章.Thuở thái b́nh quốc thái dân khang 課 太 平 國 泰 民 康,Đời thạnh trị dân phong vật thụ 代  盛  治  民  風 物 受: Nước Nam thái b́nh, dân chúng thuần hậu, sinh hoạt theo lễ giáo, ở ăn theo phong hóa, đời sống sung túc. Những câu ca tụng sự thạnh trị của thời tuồng hát đang diễn. Đây là phần giáo đầu cần thiết cho một buổi hát ngày xưa, không liên quan ǵ đến nội dung của tuồng, giống như những câu ‘chào quí khán giả và quí quan khách’ thời nay. Tương tợ như câu ‘Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng’ của Kiều. Người xem/nghe không cần để ư đến chữ đất Hớn 坦 漢, chữ Hớn chỉ có tính ước lệ, không xác định bất kỳ một nước nào, có thể là nước Nam cũng được. Để ư bản Nôm chữ trổ bị khắc thành chữ lúa .

[2] Thuở mày xanh từng chịu ấn rồng 課 眉 撑 層 召 印 𧍰, Nay đầu bạc biếng kề giá hạc  頭 泊  掑 駕 鶴: Xưa cũng có làm quan, nay già rồi không muốn theo vua làm việc quan chức nữa. Ấn rồng 𧏵: ấn của vua ban cho người có công nghiệp hay đổ đạt, người chịu ấn rồng là người có chức tước. Giá hạc 駕鶴   xe vua. Kề giá hạc tức kề cạnh bên vua, người có quyền thế. Chữ 𣷷 ông P. H. S. cũng đọc là biếng, nếu bản Nôm viết chỗ nầy bằng chữ biến thay v́ biển 𣷷 th́ dễ đọc hơn. Để ư chữ ấn khắc sai thành măo , chữ nay khắc sai phần chữ ni thành chữ ba . Nói chung sự sai lầm của các bản văn Nôm Phật Trấn thường do thợ khắc người Trung Hoa không biết chữ Nôm, không hiểu câu văn nên khắc chữ nọ xọ chữ kia do sai bộ hay thiếu/dư nét…. 

[3] Tưởng bầy của cũng đà lưu loát 想 排 𧵑 拱 它 留 冽, Hiềm v́ con rất đổi thiệt tḥi 嫌 爲 昆 叱 対 實 崔: Nghĩ rằng tiền bạc cũng nhiều, nhưng bề con cái th́ thua thiệt. Hào của th́ khá hào con th́ không bằng người. Bầy của 𧵑: số tiền của mà ḿnh có. Bầy tiếng chỉ số nhiều, bầy trâu, bầy ngựa, bầy ong, bầy con. P. H. S. không muốn phiên bằng bầy nên sửa lại là tiền: tưởng tiền của cũng đà lưu lác. Lưu loát, HTC 流 捋, dư giả, không thiếu vật ǵ. Giàu loát: giàu lớn.. Thiệt tḥi 實 崔, thua kém người khác. HTC 舌 崔, thâm tổn, bị lụy.

[4] Sau dầu xuống chốn luân hồi 𠖈 , Đà không kẻ giữ ǵn phụng tự 它 空 几 㑏 纏 奉 祠: Nếu một mai tôi chết th́ không có người lo hương khói thờ phụng. Lưu Ông ưu tư về việc không người nối dơi tông đường sau khi ḿnh mất, ông sợ câu bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại.

[5] Muốn đặng thiện duyên hai chữ 悶 卭 善 緣 𠄩 , Phải lo tác phước ngàn ngày 沛 卢 作 福 𠦳 : Làm việc phước lâu dài mới tạo được cái nhân duyên tốt cho ḿnh sau nầy. Lưu Bà nói với chồng lư do thực hành những chuyện công quả cho chùa chiền.

[6] Đem tiền bạc nhóm thêm bổn đạo , Mua đồng đúc Phật Trung Tôn  謨 銅 𨯹 佛 中 尊: Đem của tiền góp với của tiền bổn đạo để thực hiện việc đúc tượng. Cái hay ở chỗ Lưu Ông Lưu Bà tự ư đề xướng việc đúc tượng, chẳng đợi quí thầy trong chùa kêu gọi. Thiện tai thiện tai! Nhóm , HTC , tựu hội, gom lại một chỗ. Chữ 笘/呫 có thể đọc nhóm/xúm. Đọc nhóm ở đây hợp hơn. Cùng nhau hội lại để làm một việc ǵ đó.

[7] Bây chừ ta có tiếng đồn 悲 除 些 固 㗂 屯, Ngày sau cũng đặng nhờ chút phước 㝵 娄 拱 邛 洳 卒 福: Nếu ngày nay ta được tiếng tốt (rằng ưa làm phước làm duyên…) th́ sau sẽ gặp thiện duyên. Người b́nh dân thường tin tưởng rằng làm phước th́ gặp phước. Tiếng phước trước có nghĩa điều lành, điều ích lợi cho chùa chiền, tiếng phước sau có nghĩa là những điều tốt đẹp, may mắn. Tin tưởng nầy có chút ‘duy lợi’ nhưng nhờ vậy xă hội tốt đẹp hơn.

[8] Mụ đà nói trước 媒 它 呐 畧, Lăo phải theo sau 老 沛 蹺 娄: Bà nói ra th́ tôi làm theo thôi! Cặp vợ chồng nầy đồng ḷng làm chuyện cho chùa để kiếm chút phước về sau, đáng khen biết bao! Bản Nôm chữ theo đă bị khắc thành chữ nhau 饒  v́ bộ túc 𧾷bị sai thành bộ thực .

[9] Rước tài công tua khá ân cần 逴 才 工 須 可 慇 懃, Mời bổn đạo ngơ cho hoan hỷ 𨒒 本 道 吘 朱 歡 喜: Lo đi rước tài công cho tử tế, phải vui ḷng mời bổn đạo cho nhiều. Tài công 才工, ở đây nghĩa là thợ giỏi. Có thể là Lưu Ông Lưu Bà lo rước thợ đúc về sửa soạn chuyện đúc tượng Phật cho chùa. Cũng có thể hiểu tài công 才 工  do sự nói trại tiếng đà công 佗 工, người chèo thuyền, đ̣. Gia đ́nh Lưu Ông sẽ lo chuyện ghe xuồng để đi rước bổn đạo trong vùng.